Victor Hugo – Cây bút văn thơ vĩ đại của thế giới

Cùng tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác và những tác phẩm nổi bật của nhà thơ Victor Hugo – nhà thơ, nhà văn vĩ đại của thế giới. Những tác phẩm thơ văn để đời của trang thơ Victor Hugo luôn mang một dấu ấn vô cùng đặc biệt. Victor Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp.
Các tác phẩm của ông luôn đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông là một trong những cây bút vĩ đại có cống hiến lớn lao cho sự đổi mới thơ ca và sân khấu. Văn thơ của Victor Hugo mang tính đạo đức và tính chính trị cao.

I. Đôi nét về tác giả Victor Hugo

Victor Hugo sinh ngày 26/2/1802 ở thành phố Besançon nước Pháp, cha của ông là một tướng lĩnh quân đội rất giỏi. Còn nhỏ, ông theo cha cùng với mẹ và anh em sống ở đảo Corse, thủ đô Paris, rồi Tây Ban Nha; ông theo học Trường trung học Louis Đại đế ở Paris.
Victor Hugo là có tài năng về thơ rất sớm, khi 16 tuổi ông đã đạt giải nhất trong cuộc thi thơ do viện Hàn lâm Toulouse tổ chức.
Năm 1822 ông cho ra đời tập thơ đầu tay và được vua Louis thứ 18 ban thưởng.
Ông kết hôn với Adèle Foucher, có 5 người con. Cuộc đời của nhà văn, nhà thơ Victor Hugo về phương diện tình cảm, hôn nhân có rất nhiều thú vị.

Những tác phẩm nổi tiếng của ông:

Về Thơ:

  • Odes et poésies diverses (1822) (Những khúc ca ngắn và những bài khác)
  • Nouvelles Odes (1824) (Những khúc ca ngắn mới)
  • Odes et Ballades (Những khúc ca và ballad) (1826)
  • Les Orientales (Những khúc hát phương Đông) (1829)
  • Les Feuilles d’automne (Lá thu) (1831)
  • Les Chants du crépuscule (Khúc hát hoàng hôn) (1835)
  • Les Voix intérieures (Tiếng nói bên trong) (1837)
  • Les Rayons et les ombres (Tia sáng và bóng tối) (1840)
  • Les Châtiments (Trừng phạt) (1853)
  • Les Contemplations (Chiêm ngưỡng) (1856)
  • Première série de la Légende des Siècles (Truyền thuyết những thế kỷ) (1859)
  • Les Chansons des rues et des bois (Những khúc hát đường phố và núi rừng) (1865)
  • L’Année terrible (Năm khủng khiếp) (1872)
  • L’Art d’être grand-père (Nghệ thuật làm ông) (1877)
  • Nouvelle série de la Légende des Siècles (Truyền thuyết những thế kỉ, tập mới) (1877)
  • Religions et religion (1880)
  • Les Quatre Vents de l’esprit (Bốn phương tâm hồn) (1881)
  • Série complémentaire de la Légende des Siècles (Truyền thuyết những thế kỉ, tập bổ sung) (1883)
  • La Fin de Satan (1886)
  • Toute la Lyre (1888)
  • Dieu (1891)
  • Toute la Lyre – nouvelle série (Trọn tiếng đàn) (1893)
  • Les Années funestes (1898)
  • Dernière Gerbe (1902)
  • Océan. Tas de pierres (1942)

Tiểu thuyết:

  • Bug-Jargal (1820)
  • Han d’Islande (1823) (Hãn của Islande)
  • Le Dernier Jour d’un condamné (1829)
  • Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) (1831)
  • Claude, thằng khùng (Claude Gueux) (1834)
  • Những người khốn khổ (Les Misérables) (1862)
  • Lao động Biển cả (Les Travailleurs de la mer (1866)
  • Thằng cười (L’Homme qui rit) (1869)
  • Chín mươi ba (Quatre-vingt-treize) (1874)

Kịch:

  • Cromwell (1827)
  • Hernani (1830)
  • Marion Delorme (1831)
  • Le Roi s’amuse (1832)
  • Lucrèce Borgia (1833)
  • Marie Tudor (1833)
  • Angelo, tyran de Padoue (1835)
  • Ruy Blas (1838)
  • Les Burgraves (1843)
  • Torquemada (1882)
  • Théâtre en liberté (1886)

Và các tác phẩm khác..

II. Các tác phẩm văn thơ để đời của Victor Hugo

Các tác phẩm văn, thơ, kịch… của Victor Hugo đều toát lên tinh thần nhân đạo rộng lớn, thương yêu cao cả đối với những tầng lớp xã hội nghèo khổ bất hạnh mà ông luôn luôn đứng về phía họ. Ông gần như trọn đời ủng hộ cách mạng, dân chủ, tiến bộ.

Lời khuyên con lúc xuất giá

À une jeune mariée

Aime celui qui t’aime, et sois heureuse en lui.
– Adieu! Sois son tresor, o toi qui fus le notre!
Va, mon enfant beni, d’une famille a l’autre.
Emporte le bonheur et laisse nous l’ennui.
Ici l’on te retient, la-bas on te desire.
Fille, epouse, ange, enfant, fais ton double devoir.
Donne-nous un regret, donne-leur un espoir.
Sors avec une larme, entre avec un sourire!

Tập thơ: Những ca khúc Odes et ballades (1826)

Tập thơ được xuất bản năm 1826, gồm những bài “Odes” theo truyền thống thơ cổ điên Pháp, có vần điệu chặt chẽ và những bài “Ballades” gồm các bài có pha truyện phần lớn các bài với thời sự chính trị.

Tuổi thơ tôi (I) Mon enfance (I)

Mon enfance (I)
J’ai des rêves de guerre en mon âme inquiète;
J’aurais été soldat, si je n’étais poète.
Ne vous étonnez point que j’aime les guerriers!
Souvent, pleurant sur eux, dans ma douleur muette,
J’ai trouvé leur cyprès plus beau que nos lauriers.
Enfant, sur un tambour ma crèche fut posée.
Dans un casque pour moi l’eau sainte fut puisée.
Un soldat, m’ombrageant d’un belliqueux faisceau,
De quelque vieux lambeau d’une bannière usée
Fit les langes de mon berceau.
Parmi les chars poudreux, les armes éclatantes,
Une muse des camps m’emporta sous les tentes;
Je dormis sur l’affût des canons meurtriers;
J’aimai les fiers coursiers, aux crinières flottantes,
Et l’éperon froissant les rauques étriers.
J’aimai les forts tonnants, aux abords difficiles;
Le glaive nu des chefs guidant les rangs dociles;
La vedette, perdue en un bois isolé ;
Et les vieux bataillons qui passaient dans les villes,
Avec un drapeau mutilé.
Mon envie admirait et le hussard rapide,
Parant de gerbes d’or sa poitrine intrépide,
Et le panache blanc des agiles lanciers,
Et les dragons, mêlant sur leur casque gépide
Le poil taché du tigre aux crins noirs des coursiers.
Et j’accusais mon âge: «Ah! dans une ombre obscure,
Grandir, vivre! laisser refroidir sans murmure
Tout ce sang jeune et pur, bouillant chez mes pareils,
Qui dans un noir combat, sur l’acier d’une armure,
Coulerait à flots si vermeils!
Et j’invoquais la guerre, aux scènes effrayantes;
Je voyais en espoir, dans les plaines bruyantes,
Avec mille rumeurs d’hommes et de chevaux,
Secouant à la fois leurs ailes foudroyantes,
L’un sur l’autre à grands cris fondre deux camps rivaux.
J’entendais le son clair des tremblantes cymbales,
Le roulement des chars, le sifflement des balles,
Et de monceaux de morts semant leurs pas sanglants,
Je voyais se heurter au loin, par intervalles,
Les escadrons étincelants!
1823

Tập thơ: Những khúc hát phương đông Les orientales (1829)

Tập thơ Những khúc hát phương đông Les orientales (1829) được xuất bản 1829. Tập thơ mang vẻ đẹp tươi tắn và các phong vị phương Đông đầy ánh sáng, âm thanh và nhịp điệu nhảy múa. Nó biểu hiện một thiên tài đang độ phát triển. Hình tượng cái bao trong bài “Sáng trăng” có liên tưởng đến câu chuyện bọn vua chúa Thổ Nhĩ Kỳ trói những người cung nữ bị chúng nghi ngờ lòng chung thuỷ vào bao rồi ném xuống biển.

Em bé L’Enfant

L’Enfant
Les turcs ont passé là. Tout est ruine et deuil.
Chio, l’île des vins, n’est plus qu’un sombre écueil,
Chio, qu’ombrageaient les charmilles,
Chio, qui dans les flots reflétait ses grands bois,
Ses coteaux, ses palais, et le soir quelquefois
Un chœur dansant de jeunes filles.
Tout est désert. Mais non; seul près des murs noircis,
Un enfant aux yeux bleus, un enfant grec, assis,
Courbait sa tête humiliée;
Il avait pour asile, il avait pour appui
Une blanche aubépine, une fleur, comme lui
Dans le grand ravage oubliée.
Ah! pauvre enfant, pieds nus sur les rocs anguleux!
Hélas! pour essuyer les pleurs de tes yeux bleus
Comme le ciel et comme l’onde,
Pour que dans leur azur, de larmes orageux,
Passe le vif éclair de la joie et des jeux,
Pour relever ta tête blonde,
Que veux-tu? Bel enfant, que te faut-il donner
Pour rattacher gaîment et gaîment ramener
En boucles sur ta blanche épaule
Ces cheveux, qui du fer n’ont pas subi l’affront,
Et qui pleurent épars autour de ton beau front,
Comme les feuilles sur le saule?
Qui pourrait dissiper tes chagrins nébuleux?
Est-ce d’avoir ce lys, bleu comme tes yeux bleus,
Qui d’Iran borde le puits sombre?
Ou le fruit du tuba, de cet arbre si grand,
Qu’un cheval au galop met, toujours en courant,
Cent ans à sortir de son ombre?
Veux-tu, pour me sourire, un bel oiseau des bois,
Qui chante avec un chant plus doux que le hautbois,
Plus éclatant que les cymbales?
Que veux-tu? fleur, beau fruit, ou l’oiseau merveilleux?
– Ami, dit l’enfant grec, dit l’enfant aux yeux bleus,
Je veux de la poudre et des balles.
Bài thơ trên được rút từ tập Những khúc hát phương đông.

Lazzara Lazzara

Lazzara
Comme elle court! voyez! – Par les poudreux sentiers,
Par les gazons tout pleins de touffes d’églantiers,
Par les blés où le pavot brille,
Par les chemins perdus, par les chemins frayés,
Par les monts, par les bois, par les plaines, voyez
Comme elle court, la jeune fille!
Elle est grande, elle est svelte, et quand, d’un pas joyeux,
Sa corbeille de fleurs sur la tête, à nos yeux
Elle apparaît vive et folâtre,
A voir sur son beau front s’arrondir ses bras blancs,
On croirait voir de loin, dans nos temples croulants,
Une amphore aux anses d’albâtre.
Elle est jeune et rieuse, et chante sa chanson.
Et, pieds nus, près du lac, de buisson en buisson,
Poursuit les vertes demoiselles.
Elle lève sa robe et passe les ruisseaux.
Elle va, court, s’arrête, et vole, et les oiseaux
Pour ses pieds donneraient leurs ailes.
Quand, le soir, pour la danse on va se réunir,
A l’heure où l’on entend lentement revenir
Les grelots du troupeau qui bêle,
Sans chercher quels atours à ses traits conviendront,
Elle arrive, et la fleur qu’elle attache à son front
Nous semble toujours la plus belle.
Certes, le vieux Omer, pacha de Négrepont,
Pour elle eût tout donné, vaisseaux à triple pont,
Foudroyantes artilleries,
Harnois de ses chevaux, toisons de ses brebis,
Et son rouge turban de soie, et ses habits
Tout ruisselants de pierreries;
Et ses lourds pistolets, ses tromblons évasés,
Et leurs pommeaux d’argent par sa main rude usés,
Et ses sonores espingoles,
Et son courbe damas, et, don plus riche encor,
La grande peau de tigre où pend son carquois d’or,
Hérissé de flèches mogoles.
Il eût donné sa housse et son large étrier;
Donné tous ses trésors avec le trésorier;
Donné ses trois cents concubines;
Donné ses chiens de chasse aux colliers de vermeil;
Donné ses albanais, brûlés par le soleil,
Avec leurs longues carabines.
Il eût donné les francs, les juifs et leur rabbin;
Son kiosque rouge et vert, et ses salles de bain
Aux grands pavés de mosaïque;
Sa haute citadelle aux créneaux anguleux;
Et sa maison d’été qui se mire aux flots bleus
D’un golfe de Cyrénaïque.
Tout! jusqu’au cheval blanc, qu’il élève au sérail,
Dont la sueur à flots argente le poitrail;
Jusqu’au frein que l’or damasquine;
Jusqu’à cette espagnole, envoi du dey d’Alger,
Qui soulève, en dansant son fandango léger,
Les plis brodés de sa basquine!
Ce n’est point un pacha, c’est un klephte à l’œil noir
Qui l’a prise, et qui n’a rien donné pour l’avoir;
Car la pauvreté l’accompagne;
Un klephte a pour tous biens l’air du ciel, l’eau des puits,
Un bon fusil bronzé par la fumée, et puis
La liberté sur la montagne.

Sáng trăng  Clair de lune

Clair de lune
La lune était sereine et jouait sur les flots. —
La fenêtre enfin libre est ouverte à la brise,
La sultane regarde, et la mer qui se brise,
Là-bas, d’un flot d’argent brode les noirs îlots.
De ses doigts en vibrant s’échappe la guitare.
Elle écoute… Un bruit sourd frappe les sourds échos.
Est-ce un lourd vaisseau turc qui vient des eaux de Cos,
Battant l’archipel grec de sa rame tartare ?
Sont-ce des cormorans qui plongent tour à tour,
Et coupent l’eau, qui roule en perles sur leur aile ?
Est-ce un djinn qui là-haut siffle d’un voix grêle,
Et jette dans la mer les créneaux de la tour ?
Qui trouble ainsi les flots près du sérail des femmes ? —
Ni le noir cormoran, sur la vague bercé,
Ni les pierres du mur, ni le bruit cadencé
Du lourd vaisseau, rampant sur l’onde avec des rames.
Ce sont des sacs pesants, d’où partent des sanglots.
On verrait, en sondant la mer qui les promène,
Se mouvoir dans leurs flancs comme une forme humaine… —
La lune était sereine et jouait sur les flots.
Bài thơ rút từ tập “Les orientales”.

Tập thơ: Lá thu Les feuilles d’automne (1831)

Bỗng một ngày nghệ sĩ Un jour vient où soudain l’artiste généreux

Un jour vient où soudain l’artiste généreux
Un jour vient où soudain l’artiste généreux
A leur poids sur son front sent les ans plus nombreux.
Un matin il s’éveille avec cette pensée:
– Jeunesse aux jours dorés, je t’ai donc dépensée!
Oh ! qu’il m’en reste peu ! Je vois le fond du sort,
Comme un prodigue en pleurs le fond du coffre-fort. –
Il sent, sous le soleil qui plus ardent s’épanche,
Comme à midi les fleurs, sa tête qui se penche;
Si d’aventure il trouve, en suivant son destin,
Le gazon sous ses pas mouillé comme au matin,
Il dit, car il sait bien que son aube est passée:
– C’est de la pluie, hélas ! et non de la rosée! –
C’en est fait. Son génie est plus mûr désormais.
Son aile atteint peut-être à de plus fiers sommets;
La fumée est plus rare au foyer qu’il allume;
Son astre haut monté soulève moins de brumes;
Son coursier applaudi, parcourt mieux le champ clos;
Mais il n’a plus en lui, pour l’épandre à grands flots
Sur des œuvres, de grâce et d’amour couronnées,
Le frais enchantement de ses jeunes années!
Oh! rien ne rend cela! – Quand il s’en va cherchant
Ces pensers de hasard que l’on trouve en marchant,
Et qui font que le soir l’artiste chez son hôte
Rentre le cœur plus fier et la tête plus haute,
Quand il sort pour rêver, et qu’il erre incertain,
Soit dans les prés lustrés, au gazon de satin,
Soit dans un bois qu’emplit cette chanson sonore
Que le petit oiseau chante à la jeune aurore,
Soit dans le carrefour bruyant et fréquenté,
– Car Paris et la foule ont aussi leur beauté,
Et les passants ne sont, le soir, sur les quais sombres,
Q’un flux et qu’un reflux de lumières et d’ombres; –
Toujours, au fond de tout, toujours, dans son esprit,
Même quand l’art le tient, l’enivre et lui sourit,
Même dans ses chansons, même dans ses pensées
Les plus joyeusement écloses et bercées,
Il retrouve, attristé, le regret morne et froid
Du passé disparu, du passé, quel qu’il soit!

Em hãy trông, cành cây kia Vois, cette branche est rude

Vois, cette branche est rude
Vois, cette branche est rude, elle est noire, et la nue
Verse la pluie à flots sur son écorce nue;
Mais attends que l’hiver s’en aille, et tu vas voir
Une feuille percer ces noeuds si dur pour elle,
Et tu demanderas comment un bourgeon frêle
Peut, si tendre et si vert, jaillir de ce bois noir.
Demande alors pourquoi, ma jeune bien-aimée,
Quand sur mon âme, hélas! endurcie et fermée,
Ton souffle passe, après tant de maux expiés,
Pourquoi remonte et court ma sève évanouie,
Pourquoi mon âme en fleur et tout épanouie
Jette soudain des vers que j’effeuille à tes pieds!
C’est que tout a sa loi, le monde et la fortune;
C’est qu’une claire nuit succède aux nuits sans lune;
C’est que tout ici-bas a ses reflux constants;
C’est qu’il faut l’arbre au vent et la feuille au zéphyre;
C’est qu’après le malheur m’est venu ton sourire;
C’est que c’était l’hiver et que c’est le printemps!

Khi bóng trẻ thơ xuất hiện Lorsque l’enfant paraît

Lorsque l’enfant paraît
Lorsque l’enfant paraît, le cercle de famille
Applaudit à grands cris.
Son doux regard qui brille
Fait briller tous les yeux,
Et les plus tristes fronts, les plus souillés peut-être,
Se dérident soudain à voir l’enfant paraître,
Innocent et joyeux.
Soit que juin ait verdi mon seuil, ou que novembre
Fasse autour d’un grand feu vacillant dans la chambre
Les chaises se toucher,
Quand l’enfant vient, la joie arrive et nous éclaire.
On rit, on se récrie, on l’appelle, et sa mère
Tremble à le voir marcher.
Quelquefois nous parlons, en remuant la flamme,
De patrie et de Dieu, des poètes, de l’âme
Qui s’élève en priant ;
L’enfant paraît, adieu le ciel et la patrie
Et les poètes saints ! la grave causerie
S’arrête en souriant.
La nuit, quand l’homme dort, quand l’esprit rêve, à l’heure
Où l’on entend gémir, comme une voix qui pleure,
L’onde entre les roseaux,
Si l’aube tout à coup là-bas luit comme un phare,
Sa clarté dans les champs éveille une fanfare
De cloches et d’oiseaux.
Enfant, vous êtes l’aube et mon âme est la plaine
Qui des plus douces fleurs embaume son haleine
Quand vous la respirez ;
Mon âme est la forêt dont les sombres ramures
S’emplissent pour vous seul de suaves murmures
Et de rayons dorés !
Car vos beaux yeux sont pleins de douceurs infinies,
Car vos petites mains, joyeuses et bénies,
N’ont point mal fait encor ;
Jamais vos jeunes pas n’ont touché notre fange,
Tête sacrée ! enfant aux cheveux blonds ! bel ange
À l’auréole d’or !
Vous êtes parmi nous la colombe de l’arche.
Vos pieds tendres et purs n’ont point l’âge où l’on marche.
Vos ailes sont d’azur.
Sans le comprendre encor vous regardez le monde.
Double virginité ! corps où rien n’est immonde,
Âme où rien n’est impur !
Il est si beau, l’enfant, avec son doux sourire,
Sa douce bonne foi, sa voix qui veut tout dire,
Ses pleurs vite apaisés,
Laissant errer sa vue étonnée et ravie,
Offrant de toutes parts sa jeune âme à la vie
Et sa bouche aux baisers !
Seigneur ! préservez-moi, préservez ceux que j’aime,
Frères, parents, amis, et mes ennemis même
Dans le mal triomphants,
De jamais voir, Seigneur ! l’été sans fleurs vermeilles,
La cage sans oiseaux, la ruche sans abeilles,
La maison sans enfants !

Mơ mộng của khách qua đường về một ông vua (trích) Rêverie d’un passant à propos d’un roi (extrait)

Rêverie d’un passant à propos d’un roi (extrait)
La cour est en gala ! pendant qu’au-dessous d’elle,
Comme sous le vaisseau l’Océan qui chancelle,
Sans cesse remué, gronde un peuple profond
Dont nul regard de roi ne peut sonder le fond.

Ô rois, veillez, veillez!

Ne faites point, des coups d’une bride rebelle
Cabrer la liberté qui vous porte avec elle
Soyez de votre temps, écoutez ce qu’on dit,
Et tâchez d’être grands, car le peuple grandit.

Ecoutez! écoutez, à l’horizon immense,
Ce bruit qui parfois tombe et soudain recommence,
Ce murmure confus, ce sourd frémissement
Qui roule, et qui s’accroît de moment en moment.
C’est le peuple qui vient! c’est la haute marée
Qui monte incessamment, par son astre attirée.
Chaque siècle, à son tour, qu’il soit d’or ou de fer,
Dévoré comme un cap sur qui monte la mer,
Avec ses lois, ses mœurs, les monuments qu’il fonde,
Vains obstacles qui font à peine écumer l’onde,
Avec tout ce qu’on vit et qu’on ne verra plus,
Disparaît sous ce flot qui n’a pas de reflux!
Le sol toujours s’en va, le flot toujours s’élève.
Mallheur à qui le soir s’attarde sur la grève,
Et ne demande pas au pêcheur qui s’enfuit
D’où vient qu’à l’horizon on entend ce grand bruit!
Rois, hâtez-vous! rentrez dans le siècle où nous sommes,
Quittez l’ancien rivage! — À cette mer des hommes
Faites place, ou voyez si vous voulez périr
Sur le siècle passé que son flot doit couvrir!

Trời tà Soleils couchants

Soleils couchants
Le soleil c’est couché ce soir dans les nuées.
Demain viendra l’orage, et le soir, et la nuit ;
Puis l’aube, et ses clartés de vapeurs obstruées;
Puis les nuits, puis les jours, pas du temps qui s’enfuit !
Tous ces jours passeront; ils passeront en foule
Sur la face des mers, sur la face des monts,
Sur les fleuves d’argent, sur les forêts où roule
Comme un hymne confus des morts que nous aimons.
Et la face des eaux, et le front des montagnes,
Ridés et non vieillis, et les bois toujours verts
S’iront rajeunissant; le fleuve des campagnes
Prendra sans cesse aux monts le flot qu’il donne aux mers.
Mais moi, sous chaque jour courbant plus bas ma tête,
Je passe, et, refroidi sous ce soleil joyeux,
Je m’en irai bientôt, au milieu de la fête,
Sans que rien manque au monde, immense et radieux !
(Nguyên bản do hongha83 gửi)

Vậy đâu là hạnh phúc? Où donc est le bonheur?

Où donc est le bonheur?
Où donc est le bonheur? disais-je. – Infortuné!
Le bonheur, ô mon Dieu, vous me l’avez donné.
Naître, et ne pas savoir que l’enfance éphémère,
Ruisseau de lait qui fuit sans une goutte amère,
Est l’âge du bonheur, et le plus beau moment
Que l’homme, ombre qui passe, ait sous le firmament!
Plus tard, aimer, – garder dans son coeur de jeune homme
Un nom mystérieux que jamais on ne nomme,
Glisser un mot furtif dans une tendre main,
Aspirer aux douceurs d’un ineffable hymen,
Envier l’eau qui fuit, le nuage qui vole,
Sentir son coeur se fondre au son d’une parole,
Connaître un pas qu’on aime et que jaloux on suit,
Rêver le jour, brûler et se tordre la nuit,
Pleurer surtout cet âge où sommeillent les âmes,
Toujours souffrir; parmi tous les regards de femmes,
Tous les buissons d’avril, les feux du ciel vermeil,
Ne chercher qu’un regard, qu’une fleur, qu’un soleil !
Puis effeuiller en hâte et d’une main jalouse
Les boutons d’orangers sur le front de l’épouse;
Tout sentir, être heureux, et pourtant, insensé
Se tourner presque en pleurs vers le malheur passé;
Voir aux feux de midi, sans espoir qu’il renaisse,
Se faner son printemps, son matin, sa jeunesse,
Perdre l’illusion, l’espérance, et sentir
Qu’on vieillit au fardeau croissant du repentir,
Effacer de son front des taches et des rides;
S’éprendre d’art, de vers, de voyages arides,
De cieux lointains, de mers où s’égarent nos pas;
Redemander cet âge où l’on ne dormait pas;
Se dire qu’on était bien malheureux, bien triste,
Bien fou, que maintenant on respire, on existe,
Et, plus vieux de dix ans, s’enfermer tout un jour
Pour relire avec pleurs quelques lettres d’amour!
Vieillir enfin, vieillir! comme des fleurs fanées
Voir blanchir nos cheveux et tomber nos années,
Rappeler notre enfance et nos beaux jours flétris,
Boire le reste amer de ces parfums aigris,
Être sage, et railler l’amant et le poète,
Et, lorsque nous touchons à la tombe muette,
Suivre en les rappelant d’un oeil mouillé de pleurs
Nos enfants qui déjà sont tournés vers les leurs!
Ainsi l’homme, ô mon Dieu! marche toujours plus sombre
Du berceau qui rayonne au sépulcre plein d’ombre.
C’est donc avoir vécu c’est donc avoir été!
Dans la joie et l’amour et la félicité
C’est avoir eu sa part! et se plaindre est folie.
Voilà de quel nectar la coupe était remplie!
Hélas! naître pour vivre en désirant la mort!
Grandir en regrettant l’enfance où le coeur dort,
Vieillir en regrettant la jeunesse ravie,
Mourir en regrettant la vieillesse et la vie!
Où donc est le bonheur, disais-je? – Infortuné!
Le bonheur, ô mon Dieu, vous me l’avez donné!

Những bài thơ của Victor Hugo mang giá trị nhân văn, giá trị đạo đức cao cả. Những tác phẩm thơ văn của ông đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Victor Hugo là cây viết vĩ đại, mang tầm thế giới được người đọc yêu thích.