Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du – Ngậm hờn thiên cổ kiếp sống phù du

Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du hay còn gọi là Văn chiêu hồn. Đây là một bài văn tế được viết bằng chữ Nôm vào đầu thế kỷ 19 và cũng được đánh giá là một sáng tác xuất sắc của Nguyễn Du. Theo nhiều nghiên cứu bài văn tế này được viết sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết. Và khi đó các vong linh âm khí nặng nề cần được giải thoát. Và Nguyễn Du đã viết Văn tế thập loại chúng sinh đề cập tới một thế giới hồn ma đầy thảm thương. Nhưng nhìn một cách rộng hơn đó cũng chính là thế giới, hình ảnh lộn trái của trần thế.

Văn tế thập loại chúng sinh

Văn tế thập loại chúng sinh chưa rõ thời gian sáng tác. Tuy nhiên theo nhiều nghiên cứu mà cụ thể là văn bản trích dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên Đông Dương tuần báo năm 1939 thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp. Mùa dịch đó đã làm hàng triệu người chết. Khi đó khắp non sông đất nước âm khí nặng nề và nhiều người đã lập đàn giải thoát cầu siêu cho các linh hồn. Tuy nhiên với ý kiến của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều khi ông đang làm cai bạ ở Quảng Bình.

Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
5. Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
10. Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
15. Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
35. Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
55. Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
60. Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
75. Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,
80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
95. Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du - Ngậm hờn thiên cổ kiếp phù du

Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
105. Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
115. Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
130. Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
135. Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
150. Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
170. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
175. Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Cảm nhận bài Văn tế thập loại chúng sinh

Văn tế thập loại chúng sinh là một bài văn chiêu hồn, khấn tế các hồn ma đầy thảm thương. Nhưng đó cũng chính là hình ảnh lộn trái của trần thế. Tuy nhiên ở xã hội hồn ma không có sự phân chia, đối lập giàu nghèo… Bởi ai cũng chịu cảnh đọa đày và bài văn tế này có 184 câu thơ Nôm, được viết theo thể song thất lục bát.

Bố cục của bài văn tế

Về các chia và bố cục của bài thơ, theo Đặng Thị Hảo bài văn tế này được chia làm 4 phần:

  • Phần đầu: (20 câu) là khung cảnh một buổi chiều tháng 7 mưa dầm và chúng sinh đang rất lạnh lẽo, bơ vơ.
  • Phần 2: (116 câu thơ tiếp): Giải thích nguyên nhân tại sao họ lại thiệt mạng.
  • Phần 3: (20 câu) miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các loại cô hồn.
  • Phần cuối: (28 câu): Lời thỉnh cầu để họ được giải thoát và cuối cùng là mời đến nhận lễ cúng.

Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du - Ngậm hờn thiên cổ kiếp phù du

Giá trị nhân văn của tác phẩm

Với bài Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du đã miêu tả 10 loại linh hồn ở cuộc sống hư vô, cuộc sống ấy được hiện lên đầy chân thực không khiên cưỡng. Và từ đó làm xoáy vào tâm can, da thịt của những người đương thời. Và đó cũng chính là sự đồng cảm sâu sắc đối với một kiếp người. Hơn nữa đó cũng là giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, cũng chính là hồi chuông cảnh tỉnh.
Giá trị nhân văn của đại thi hào chính là khi viết về thân phận của con người ở mười loại vong hồn. Điều này đã thể hiện được cái nhìn bao quát và phát hiện ra những nét tinh tế của cuộc sống mỗi con người. Và cái chết là điểm tụ lại trong quy luật ấy. Đó cũng chính là điểm tụ mọi biểu hiện của cuộc sống con người, mọi kiếp nhân sinh.
Với bài văn tế này ta có thể cảm nhận được những nét tinh tế, sâu sắc. Đó cũng chính là sự khuyên nhủ lẫn nhau giữa những người đang bên nhau và sao cho quan hệ nhân sinh tốt đẹp nhất. Thêm vào đó cũng chính là cảm xúc vang dội sâu xa và cũng chính là sự chia sẻ ấm áp thân tình.
Vượt ra khỏi biên giới quốc gia các câu thơ của Nguyễn Du đã lay động hàng triệu tâm hồn ở nhiều thế hệ. Chẳng hạn như bà Cô Cô Hồn Mỹ ở đất Việt và Văn chiêu hồn của Nguyễn du đã được lưu trong Hồ sơ văn hóa Mỹ. Câu chuyện đề cập đến đây chính là tâm hồn của trí thức với nhân cách lớn và vĩ đại.
Văn tế thập loại chúng sinh là một trong những sáng tác hay của Nguyễn Du. Ở đó ta cảm nhận được một xã hội hồn ma đầy bi thương. Nhưng đó cũng chính là hình ảnh của xã hội trần thế. Và ở đây ông muốn chuyển tải một thông điệp rõ ràng đó chính là chúng sinh ai cũng như ai. Bởi họ cũng chịu cảnh đọa đày, oan khuất, cô đơn nên cần phải xót thương tất cả.