Tuyển tập thơ chữ Nôm Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 2

Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng ở làng Văn Khế, Nam Định. Ông sinh năm 1835 và mất năm 1909 ở Yên Đổ. Cha ông chính là Nguyễn Tông Khởi từng đổ ba khóa tú tài và là người dạy học. Còn mẹ là Trần Thị Thoan và là con của Trần Công Trạc, từng đổ tú tài thời Lê Mạt. Do vậy Nguyễn Khuyến ngay từ nhỏ đã nổi tiếng học giỏi. Hãy cùng tham khảo các bài thơ của ông dưới đây bạn nhé!

Chừa rượu

Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên nỗi không chừa được.
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.

Cò mổ trai

Trai sao chẳng biết tính con cò?
Mày hở hang chi nó mổ cho!
Trai cậy dày mu không khép kín,
Cò khoe dài mỏ chực ăn to.
Thôi về bãi bể cho êm ái,
Để mặc bên sông nó gật gù.
Cò trắng dẫu khôn đành gác mỏ,
Trai già chờ lúc lại phơi mu.

Cua chơi trăng

Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,
Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.
Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,
Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.
Cung quế chờn vờn hương mới bén,
Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.
Một mai cá nước cua vui phận,
Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?

Cuốc kêu cảm hứng

Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

Duyên nợ

Mưỡu:
Cái duyên hay cái nợ nần,
Khi xa xa lắc, khi gần gần ghê.
Dấu hồng còn gửi tuyết nê,
Khi bay nào biết đông tê bóng hồng.

Nói:
Giai nhân nan tái đắc,
Mười ba năm một giấc bâng khuâng.
Động hơi thu chợt nhớ đến vầng trăng,
Chén non nước tưởng chừng đâu bửa nọ.
Quá nhãn quang âm quân dĩ ngộ,
Thiếu thời phong độ ngã do liên.
Lại may mà gió mát đưa duyên,
Mượn thơ thánh, đàn tiên khuây chuyện cũ.
Đối tửu mạc đề ly biệt cú,
Chốn non Vu vân vũ hãy đi về.
Cánh hồng nào biết đông tê.

Đề ảnh tố nữ

Bao tuổi xuân xanh hỡi chị mình?
Xinh sao xinh khéo thực là xinh!
Hoa thơm chẳng nhuộm hương mà ngát,
Tuyết sạch không nề nước mới thanh.
Ngoài mặt đã đành son với phấn,
Trong lòng nào biết đỏ hay xanh?
Người xinh, cái bóng tình tinh cũng…
Mỗi bút một thêm một điểm tình!

Đêm đông cảm hoài

Nỗi nọ, đường kia xiết nói năng!
Chẳng nằm, chẳng nhắp, biết mần răng?
Đầu cành, mấy tiếng chim kêu tuyết.
Trước điếm, năm canh chó sủa trăng.
Bảng lảng lòng quê khôn chợp được.
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng.
Canh gà eo óc đêm thanh thả,
Tâm sự này ai có biết chăng?

Đêm mùa hạ

Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thực oi ả,
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy biết cùng ai,
Cảnh này buồn cả dạ.
Biếng nhắp năm canh chầy,
Gà đà sớm giục giã.

Đĩ cầu Nôm

Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ?
Trời sinh ra cũng để mà chơi!
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời,
Chơi thủng trống long dùi âu mới thích.
Đĩ bao tử càng chơi càng lịch,
Tha hồ cho khúc khích chị em cười:
Người ba đấng, của ba loài,
Nếu những như ai thì đĩ mốc.
Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc
Khá khen thay làm đĩ có tông
Khắp giang hồ chẳng chốn nào không.
Suốt Nam Bắc Tây Đông đều biết tiếng.
Đĩ mười phương chơi cho đủ chín,
Còn một phương để nhịn lấy chồng.
Chém cha cái kiếp đào hồng,
Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số.
Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó,
Mai sau ngày giỗ có văn nôm.
Cha đời con đĩ cầu Nôm.

Đưa người làm mối
Tri âm xin tỏ với tri âm,
Một tỉnh tình tinh miệng lỡ lầm;
Nhấp nhoáng hạt trai ngờ hổ phách,
Mơ màng núc nác ngỡ vàng tâm!
Bắn tin bướm nhạn hoa còn đỏ,
Nghe nói vườn xuân sắc đã thâm.
Nhắn nhủ bà hàng đừng đóng ghế,
Bầu non kia đã phải ong châm.

Gái goá than lụt [Than lụt; Ngộ lạo thiệp nữ tự thán]

Con tạo ghen chi gái má hồng,
Mà đem nước đến vỗ tầm vông.
Gió lùa cửa cống bèo man mác,
Trăng xỏ buồng trai bóng phập phồng.
Những sợ anh kình rình rưới rốn,
Lại lo chú chuối lẩn bên hông.
Quản chi điểm phấn trang hồng nữa,
Chỉ biết nơi sâu với chốn nông.

Gái rửa đít bờ sông [Gái đái bờ sông; Hỏi đá; Thơ hòn đá; Thiếu phụ nhân phóng uế tại hà bạn, hỉ vịnh]

Thu vén giang sơn một cắp tròn,
Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn.
Biết chăng chỉ có ông Hà Bá,
Mỉm mép cười thầm với nước non.

Gặp sư ni [Đồng trung ngộ nỉ hỉ tác]

Giữa đường nay gặp gánh tương tư,
Nửa ngỡ là quen, nửa lại ngờ.
Mở nón hoá ra người cũ thực,
A di đà Phật! Chị mình dư?

Giễu mình chưa đỗ [Vị đệ tự trào]

Nghĩ tôi, tôi gớm cái mình tôi,
Tuổi đã ba mươi kém một thôi.
Cơm cứ lệ ăn đong bữa một,
Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.
Bốn khoa hương tí không đâu cả,
Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.
Mang tiếng văn chương lừng vũ trụ,
Nghĩ tôi, tôi Gớm cái mình tôi.

Gửi bác Châu Cầu

Kim lan từ thủa nhỏ chơi bời,
Đôi lứa như ta được mấy người.
Trời hẹn ngày cho ba vạn sáu,
Ta chung tuổi mới một trăm hai.
Kẻ già nét bút chăm cùng trẻ,
Người khoẻ tay dao độ lấy đời.
Từ trước bảng vàng nhà sẵn có,
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi.

Gửi ban tu thư

Nhắn nhủ tu thư hỡi các ngài,
Đã tu tu kỹ, chớ tu lười!
Góp chung ba bốn năm mồm lại,
Rồi để trăm nghìn vạn mắt coi.
Bút gác núi Nùng thêm vẻ rạng,
Mực mài sông Nhị ngát hương trôi.
Bê ba sẵn sách đem mà học,
Để tiếng khoa danh biết mấy đời.

Gửi người con gái xóm Đông bài 1

Mượn gió đưa thư tới xóm Đông,
Hỏi người thục nữ muốn chồng không?
Rắp mong chờ đợi người quân tử,
Hay sắp đèo bòng kẻ phú nông?
Hay muốn đem thân nương đài các?
Hay buồn phận bạc hoá long đong?
Tình trong yểu điệu đà nên gái,
Đấng bậc, coi chừng muốn lấy ông!

Gửi người con gái xóm Đông bài 2

Đôi ta giao ước với tơ hồng,
Vàng đá đinh ninh đã quyết lòng
Chén dặn trên soi thời nhật nguyệt,
Lời nguyền dưới xét có non sông,
Liễu đào đông cựu lai như nhất,
Mai trúc xuân tân nối chữ đồng.
Một bức tờ này lòng gắn bó,
Gìn vàng giữ ngọc để cam công.

Gửi ông đốc học Ngũ Sơn [Ký bản tỉnh đề học Ngũ Sơn; Mừng đốc học Hà Nam; Mừng ông Ngũ Sơn ra làm đốc học; Tặng đốc học Nguyễn công]

Lâu nay không gặp ngỡ xa đàng,
Ai biết rằng ra giữ mõ làng.
In sáo vẽ cho thằng mặt trắng,
Bẻ cò tính lại cái lương vàng.
Chuyện đời hãy đắp tai cài trốc,
Lộc thánh đừng lừa nạc bỏ xương.
Cũng muốn ra chơi, chơi chửa được,
Gió thu hiu hắt nhuộm màu sương.

Hoài cổ [Trường thành hoài cổ]

Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ di rồi.
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi.

Học trò phụ công thầy

Bấy lâu trú ngụ chốn sơn đông,
Bảo chúng nên rồi chúng phụ công.
Bể thánh mênh mông nhờ cái ốc,
Rừng nho lai láng bắt con ong.
Nâng niu nòng nọc đà nên cóc,
Dìu dắt liu điu cũng hoá rồng.
Cửa Vũ những toan loài trắm chép,
Đòng đong, cân cấn giỗ mồi không.

Hỏi đá

Bao nả giang sơn một gánh tròn,
Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn;
Biết chăng chỉ có ông Hà bá,
Mỉm mép cười thầm với nước non.

Hỏi thăm quan tuần mất cướp

Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc, có đau không?
Bây giờ mới khẽ sầy da trán,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông.
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa.
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!

Hội Tây

Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo:
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

Khai bút

Ình ịch đêm qua trống các làng,
Ai ai mà chẳng rước xuân sang.
Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén,
Bút mới vui tay thử một hàng.
Ngoài luỹ cắp cô cò cụ Tổng,
Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang.
Một năm một tuổi, trời cho tớ,
Tuổi tớ trời cho, tớ lại càng…

Không chồng trông bông lông [Muốn lấy chồng]

Bực gì bằng gái trực phòng không?
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng.
Trên gác rồng mây ngao ngán đợi,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui, lắm lúc cười cười gượng,
Bán muộn, nhiều phen nói nói bông.
Vẫn tưởng có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.

Khuyên người làm lẽ

Này hãy nín đi, hãy nín đi,
Lấy chồng làm lẽ có can chi;
Tôi đòi phận trước còn nhiều kẻ,
Hầu hạ duyên sau chẳng một dì;
Ví được sánh duyên người lịch sự,
Còn hơn chính thất kẻ ngu si.
Dẫu rằng cơm nguội nhà ngoài đó,
Cũng đủ phong lưu chẳng thiếu gì.

Khuyên Từ Hải hàng

Phút chốc đem thân bỏ chiến trường,
Ba quân ngơ ngác ngọn cờ hàng.
Sá chi bèo bọt, tôi vì nước,
Thẹn với non sông, thiếp phụ chàng!
Phận tủi nỉ non đàn bạc mệnh,
Duyên may run rủi lưới Tiền Đường.
Mười lăm năm ấy người trong mộng,
Há những là đây mới đoạn trường.

Khuyên vợ cả

Ta chẳng như ai lối nguyệt hoa
Trước là ngẫm nghĩ nỗi gần xa:
Lấy năm thì cũng dành ngôi chính,
Dấu bảy càng thêm vững việc nhà.
Mọi việc cửa nhà là việc nó
Mấy con trai gái ấy con ta.
Thôi đừng nghĩ sự chi chi cả:
Chẳng chữ gì hơn chữ thuận hoà!

Kiều bán mình chuộc cha [Bán mình chuộc cha; Nạn bán mình]

Thằng bán tơ kia giở giói ra,
Làm cho bận đến cụ Viên già.
Muốn êm phải biện ba trăm lạng,
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.
Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ,
Đem thân chuộc lấy tội tình cha.
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Đời trước làm quan cũng thế a?

Trên đây là các bài thơ của Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Nôm rất hay và độc đáo mà chúng tôi đã tìm hiểu và chia sẻ với bạn. Thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu được một hồn thơ rất đặc sắc của ông. Đặc biệt trong số đó là ba bài thơ thu vô cùng nổi tiếng. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay bạn nhé!

Xem thêm: Tuyển tập thơ chữ Nôm Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 3