Tuyển chọn những bài thơ dịch Phạm Hổ hay nhất mọi thời đại phần 2

Nhà thơ Phạm Hổ được mệnh danh là một thi sĩ thiếu nhi bởi những thi phẩm của ông hầu như đều dành cho các em nhỏ. Những trang thơ của ông luôn nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt từ độc giả yêu thơ. Sự tài năng của ông càng được khẳng định hơn nhờ những thi phẩm dịch tài hoa và nổi tiếng góp phần đưa tên tuổi của ông đến gần hơn với bạn đọc. Hãy cùng nhau đón xem và theo dõi nhé!

Những ngày tôi sống Дни мои

Летете – радостни или омразни,
И делници и празници.
Летете, няма да ви смятам,
Дни мои на земята –
Вий, сиви гълъби и бели, –
Излитнали от моите ръце
И някъде в безкрая отлетели
Като към предначална цел…
На шийките ви малките писма,
Привързани от мен самата,
Сърдечен ли и близък ще ги вземе?
Или ще паднете без време –
достигнали едва сред път?
Или стрела ще ви прониже
И чужди погледи ще спрат
Над земните ми радости и грижи?
Летете – няма да ви смятам,
Дни мои на земята,
Разкъсали трептящото сърце
И литнали навеки от ръцете ми –
Които нямат сила да ви спрат,
Когато пожелаят страстно –
Или веднага, бърже да ви тласнат,
Когато часовете ги морят.

Dịch

Hãy bay đi, những ngày rạng rỡ, những ngày đáng căm
những ngày bình thường, những ngày hội lớn
Hãy bay đi – ta không tính đến các ngươi đâu
các ngươi, những ngày trên mặt đất này ta sống
như những con bồ câu xám, những con bồ câu trắng
hãy bay đi từ hai bàn tay ta
bay đi về nơi vô tận
đến một cái đích đã định sẵn rồi, từ trước xa
Những lá thư ta đeo vào cổ chim
Có ai gỡ ra không nhỉ?
một bàn tay gần gũi, dịu hiền?
Nhưng mệt nhọc quá chăng, rất có thể
Chim sẽ dọc đường ngã xuống
hoặc một mũi tên nào đó đâm xuyên mình chim
và thản nhiên là những cái nhìn
đối với những buồn vui của ta trên mặt đất
Hãy bay đi, ta không tính đến các ngươi đâu
Các ngươi, những ngày trên mặt đất này ta sống
các ngươi đã xéo nát trái tim ta
và từ đôi bàn tay ta đã bay đi mãi mãi
đôi bàn tay ta không đủ sức níu giữ các người đâu
khi chúng say mê muốn làm công việc đó
cũng không đủ sức đẩy các người ra xa
khi những giờ phút bất nhân dày vò chúng nó

Ở làng На даче

I
И ето, тук съм. И пътека
не води в моя нов подслон.
А вечерта застила меко
обвития във хмел балкон.
Защо са тук звездите едри
и свода сякаш по-дълбок?
Дано, дано и в мен разведри
нависналите мисли бог.
Вратата рано ще затварям
и няма ни да паля свещ,
ни с някого да разговарям.
Ливадата е покосена,
дъхът й – сладък и горещ
и за ще спя като спасена.
II
край мен преминаха косачи,
а после звъннаха стада
и над леса – безмълвно здрачен,
изгря вечерната звезда.
Отнейде лъхнала прохлада
като ветрило ме повя
и странно отмаляла, сядам
на покосената трева.
Повехнала, зеленосива,
дъхът й леко ме опива –
като накипнало вино.
Но пак защо ме скръб обсеби?
Сега бих дишала със тебе
дъха на прясното сено…
III
Аз живея далеч от света
и сънят ми е кротък и девствен.
Не достигат до мойта врата
ни тревожни, ни радостни вести.
През деня, сред обилния плод
на нивята, отдъхвам с надежда.
Вечерта на бездънния свод
във съзвездия нови се вглеждам.
Но защо днес сърцето се сви?
Твоя спомен не е ли погребан
сред уханните полски треви?
А над мен е планинския гребен.
как спокойно е тука без тебе,
как спокойно и – пусто, уви!

Dịch

I
Thế là tôi đã về đây. Không một đường mòn nào
Đưa tôi đến một nơi trú ẩn khác
Buổi chiều đến rất êm trên ban công
Nơi những ngọn lúa mì uốn cong mình rất đẹp
Những ngôi sao ở đây sao lại lớn nhường kia
và bầu trời nhường kia sâu thẳm?
Giá Thượng Đế cho những ý nghĩ đang đè nặng hồn tôi
Cũng trở nên nhẹ nhàng, trong sáng!
Tôi đóng cửa lại rất sớm
Và cũng chẳng đốt nến lên
cũng không một lời nào với ai cả
Cánh đồng đã gặt
Hơi thở nó ấm áp, dịu hiền
Và tôi như người thoát nạn, ngủ yên
II
Trước mắt tôi, những người đi phạt cỏ kéo nhau qua
Sau đó là tiếng đàn cừu khua lục lạc
Bên trên khu rừng, mờ đục ánh hoàng hôn
Lửa ngôi sao hôm đã thắp
Một làn gió mát không biết đến từ đâu
Vuốt ve tôi như từ một chiếc quạt vô hình
Mệt mỏi một cách lạ lùng, tôi ngồi xuống
trên đám cỏ vừa bị phạt bớt đi màu xanh
Bắt đầu héo và chuyển qua màu xanh biếc
Hơi thở của cỏ kia làm tôi say say
Như rượu mới, men vừa chớm bốc
Sao nỗi buồn lại xâm chiếm lấy tôi?
Lẽ ra giờ này bên anh, em cùng hít thở
Mùi rạ thơm, vết cắt còn tươi
III
Tôi sống ở đây, xa lắm cuộc đời
Và giấc ngủ, lành yên, trong sáng
Ngưỡng cửa ngôi nhà, không hề lai vãng
một tin vui, một tin dữ nhói lòng
Ban ngày, bao hoa trái, đất mang dâng
Tôi thoải mái nghỉ ngơi và hi vọng
Đêm đêm, ngắm bầu trời cao rộng
với những chùm sao mới rất tinh khôi
Những vì sao hôm nay nghe se lại trái tim tôi
Kỷ niệm về anh đã chẳng bị chôn vùi
Dưới những lớp cỏ thơm đồng nội?
Bên trên tôi là đỉnh núi cao vời
Chao! Tất cả đều bình yên khi không có anh
Bình yên quá – nhưng vô cùng trống trải

SOS

В този век на бетона, машините и радиото,
на главоломните рушения и луди дирения,
на хаоса и неизбистреното утре,
в тази страна — праг между Изтока и Запада,
кръговрат на войни и бедствия,
дето хората живеят за кора хляб и педя земя,
какво е нашата безполезна лирика, мои братя?
— Жалкия вой на бездомните псета към луната…
Така и ние ще издъхнем някоя нощ прокълнати
и ще ни смете на утрото автоматичната метла,
когато ранните петли пробудят градове и села…
Но криви ли сме ние, че сме родени не вчера или утре — а днес,
не под западните сини светлини на живака,
не под екзотичните лъчи на тропика на Рака —
а тук, дето всички ветрове платната ни надуват
и се кръстосват разноцветни знамена?
Криви ли сме, че в нашата балканска кръв плуват
белите атоми на славянския сантиментализъм
и червените — на примитивните татарски племена?
Ето: ние сънуваме милионнотонните транзатлантически параходи
и океанските пълноводия.
Тачим
стоетажните нюйоркски небостъргачи.
Мечтаем под песента на аеропланните перки,
танцуваме в ритъма на запалените мотори,
пред отворените предаватели вдъхновено говорим —
и заспиваме под успокоителните „ОК“,
идещи от австралийските колонии…
Но в устата си усещаме още вкуса на дивия лов
и аромата на горска мед.
Душата ни се отваря в топлите нощи по сенокос,
изпразненото ни сърце намира още мъка за изгубената любов,
когато — друсани по неравния планински път,
под едрите юлски звезди,
сред светулките и пеещите щурци
и уханията на зрелите полски треви —
отиваме към шумящите балкански гори,
към поваления селски плет,
да излеем умората си в тихия бащин кът
и скръбта си в топлия майчин скут…
И ето защо казвам: — Ще умра доволна и без болка,
ако успея, като жена и поетка,
да разкрия пред света сърцето си, поне толкова,
колкото младото жълто канарче в телената клетка
над главата ми в ресторанта,
в паузите, когато си почива джазбанда!…

Dịch

Trong thế kỷ này của bê tông, máy móc, điện đài
của những sự tàn phá kinh hồn, những phát minh hăm hở
của sự hỗn độn, và của ngày mai chưa sáng tỏ
ở nước tôi, cái ngưỡng cửa giữa Đông và Tây
một chuỗi những cuộc chiến tranh và thảm hoạ thiên tai
nơi những con người sống với một mẩu bánh mì và một rẻo đất con bé tí!
Vậy thì ích gì đâu những vần thơ trữ tình của chúng ta bạn nhỉ
Chúng ta sẽ khốn khổ thở hắt ra trong một đêm nào đó
Như tiếng tru thê thảm của những con chó hoang sủa trăng
và chúng ta sẽ bị cái chổi vô hình của ban mai quét sạch
vào cái lúc những con gà đầu tiên gáy lên khắp các làng mạc phố phường
Nhưng có phải lỗi của chúng ta nếu chúng ta không sinh ra hôm qua, ngày mai mà lại đúng hôm nay
Không phải sinh ra ở phương Tây, dưới ánh sáng xanh của sao Thuỷ
Không phải sinh ra dưới ánh nắng lạ lẫm của vùng nhiệt đới, có chùm sao phương bắc
mà lại sinh ra ở đây, nơi tất cả những ngọn gió thổi căng các cánh buồm
Và nơi các maùu cờ khác nhau đã bắt gặp nhau luôn
có phải lỗi ở chúng ta, nếu trong dòng máu ban-căng chuyển động
những nguyên tử trắng của tình cảm
và những nguyên tử hồng của những bộ lac tác-ta hoang dã?
Thế đó: chúng ta ước mơ những con tài hàng triệu tấn vượt đại tây dương
và những con nước triều mênh mông biển lớn, chúng ta chiêm ngưỡng
Những toà nhà chọc trời hàng trăm tầng của Niu Oóc
Chúng ta ước mơ, trong tiếng hát những cánh quạt máy bay
Nhưng mỗi chúng ta còn giữ cái vị của thú hoang bị giết
và hương mật ong của những cánh rừng
trái tim dốc rỗng của chúng ta còn đau về mối tình đã mất
Khi trên những con đường núi xóc xạc, đá dăm lởm chởm
dưới những ngôi sao tháng bảy nhìn rõ to
giữa những con đom đóm và tiếng hát ve sầu
và những ngọn cỏ chín thơm trên những cánh đồng bát ngát
Chúng ta đi về phía những cánh rừng Ban-căng đang xào xạc
đến những bờ rài cổ lỗ ngả nghiêng
để trút hết nỗi mệt nhọc nơi tổ ấm của cha
và nỗi buồn lo trong hơi ngực ấm của mẹ
Và vì thế nên tôi mới nói – tôi sẽ chết yên lòng và êm ả
nếu tôi có thể, là một phụ nữ, một nhà thơ
mở rộng hết tìm tòi, trước cõi đời hay ít nhất
như một con chim ca-na-ri bé nhỏ đang hát trong lồng sắt
trên đầu tôi, trong một khách sạn
giữa những lúc lặng im của dàn nhạc trống rập rình

Tiếng gọi

Аз съм тук зад три врати заключена
и прозореца ми е с решетка,
а душата волна, волна птица в клетка,
е на слънце и простор научена.
Пролетни са ветровете полъхнали,
чувам гласове призивно ясни.
Моя плам непламнал ще угасне
в здрача на покоето заглъхнали.
Рзатроши ключалките ръждясали!
Дай ми път през тъмни коридори!
Не веднъж в огрените простори
моите крила са ме понасяли.
И ще бликнат звукове ликуващи
от сърцето трепетно тогава…
Но зад тези три врати, сподавен,
моя пламнал зов дали дочуваш ти?

Dịch

Em bị nhốt ở đây, ba lớp cửa phòng khoá chặt
và cánh cửa sổ kia lưới cũng giăng rồi
Tâm hồn em như chim lồng cá chậu
Vốn sinh ra để sống với không trung, sống với mặt trời
Gió mùa xuân đã thổi
Em nghe bao tiếng gọi gọi tên mình
Ngọn lửa lòng em sẽ tắt lịm đi trước khi bùng cháy
Trong những gian phòng mờ ảo lặng thinh
Anh ơi, hãy phá nát những ổ khoá kia cũ kỹ
Hãy vạch cho em một lối thoát giữa những hành lang âm u
Hơn một lần, đôi cánh hồn em đã mở
mang em bay qua những khoảng rộng rạng ngời
Từ trái tim em đạp dồn nhịp đập
sẽ bay vút lên những tiếng hát trong lành
Nhưng bị bịt kín sau ba lớp cửa phòng khoá chặt
Liệu tiếng kêu của em có vang đến tai anh?

Tuổi trẻ Младост

Додея ми, майко, робска орисия
в господарски двори и с тежко имане.
Саван ми е пуста свилена премяна:
под чисти жълтици да превивам шия
под скъпи чумбери да прикривам вежди,
от гривни ковани с ръка да не сегна,
от сребърни пафти снага да ми тегне –
тежко да присътпям, плахо да поглеждам…
Искам, майко, млада – младост да позная.
Злато ми снагата, свила ми косите,
господарска воля – огъня в очите.
Довека ли, майко, младостта ни трае?
Да стана зарана, да ошетам двора,
па да литна в къра – и да ми е тесен, –
сърпа да извия и викна песен,
та да потрепери равното Загоре…

Dịch

Mẹ ơi, con chán lắm rồi cảnh đời nô lệ
Trong những sân nhà, mình là chủ, với bao của cải nặng nề
Bộ áo lụa quái quỷ này với con là vải liệm
Và những chiếc vòng vàng kia nữa, cứ làm con cúi xuống
Những cái khăn sang trọng cuốn lấp cả lông mày
Những chiếc vòng vàng chạm trổ trĩu nặng cả bàn tay
Những cái đai bằng bạc làm hông con lướng vướng
Bước con đi nặng nề, cái nhìn con lo lắng
Mẹ ơi, con muốn trẻ và cảm thấy sức trẻ của mình
Thân con là vàng, tóc con là lụa
Uy quyền của chủ, ấy là lửa trong đôi mắt con
Mẹ ơi, tuổi trẻ của chúng ta có phải là vĩnh cửu
Con muốn dậy lúc rạng đông, càm chổi quét sân
Sau đó bay ra cánh đồng và cảm thấy cánh đồng quá hẹp
Tay hươ hươ cái liềm, miệng hồn nhiên con hát
Cả đồng bằng Zagôrê sẽ rung động vì tiếng hát của con

Ra đi Заминаване

В ушите още оня шум от гълъбите на площада,
усещам още жегата от стъпалата на „Сан Марко“,
зениците се свиват още, сякаш загоряла ярко,
слепи ги в слънчевия блясък пламналата му фасада.
Но влакът вече ме отвлича и ми пее без пощада —
че цял живот не ще забравя тази пладня странножарка,
че тя през дни студено-зли като мираж ще ми се мярка,
че на света такава радост може би веднъж се пада…
А в този час, аз знам, отвъд е нежнорозово морето,
Венеция трепти, огряла с цветовете на кристала,
и някъде запял е там един гондолиер несретен.
Но ето края на канала — с тъмна застояла пяна.
Венеция, в сърцето ми последна обич осияла,
над твоята лагуна светла пада вечер кадифяна

Dịch

Trong tai tôi vẫn còn nghe tiếng những con bồ câu trên quảng trường
Dưới chân tôi vẫn còn hơi nóng của những bậc thềm Xăng-Máccô
Và mắt tôi nheo lại như đang bị chói sáng
vì bức tường đang rực cháy trong nắng vàng
Nhưng con tàu đã mang tôi đi, và ru tôi không ngớt giọng
Đến hơi thở cuối cùng, tôi không thể nào quên buổi sáng rực nóng này
và trong những ngày gió lạnh, khắc nghiệt, nó sẽ hiện lên như một ảo ảnh
và niềm vui hôm nay như chỉ có một lần
Và tôi biết trong giờ phút này, biển sẽ dịu hồng biết mấy
và Vơ-ni-dơ rung lên, lấp lánh với muôn nghìn ánh thuỷ tinh
và đâu đó tiếng một người chèo đò đau khổ cất lên
Kia rồi, cửa của con kênh với những đám bọt nằm im và thầm lặng
Vơ-ni-dơ, người đã làm ngời lên trong tôi tình yêu cuối cùng
trên cái doi biển trong sáng của người, buổi chiều êm như nhung đang xuống

Tiếng gọi

Аз съм тук зад три врати заключена
и прозореца ми е с решетка,
а душата волна, волна птица в клетка,
е на слънце и простор научена.
Пролетни са ветровете полъхнали,
чувам гласове призивно ясни.
Моя плам непламнал ще угасне
в здрача на покоето заглъхнали.
Рзатроши ключалките ръждясали!
Дай ми път през тъмни коридори!
Не веднъж в огрените простори
моите крила са ме понасяли.
И ще бликнат звукове ликуващи
от сърцето трепетно тогава…
Но зад тези три врати, сподавен,
моя пламнал зов дали дочуваш ти?

Dịch

Em bị nhốt ở đây, ba lớp cửa phòng khoá chặt
và cánh cửa sổ kia lưới cũng giăng rồi
Tâm hồn em như chim lồng cá chậu
Vốn sinh ra để sống với không trung, sống với mặt trời
Gió mùa xuân đã thổi
Em nghe bao tiếng gọi gọi tên mình
Ngọn lửa lòng em sẽ tắt lịm đi trước khi bùng cháy
Trong những gian phòng mờ ảo lặng thinh
Anh ơi, hãy phá nát những ổ khoá kia cũ kỹ
Hãy vạch cho em một lối thoát giữa những hành lang âm u
Hơn một lần, đôi cánh hồn em đã mở
mang em bay qua những khoảng rộng rạng ngời
Từ trái tim em đạp dồn nhịp đập
sẽ bay vút lên những tiếng hát trong lành
Nhưng bị bịt kín sau ba lớp cửa phòng khoá chặt
Liệu tiếng kêu của em có vang đến tai anh?

Bretagne Бретан

Да ослепеят очите ми – и двете,
да ме сполети навеки проклятие,
ако забравя накога това лято,
Атлантика и на Лайта бреговете.
Низ просторните пясъци край морето
стъпките ни останаха отпечатани.
А може би в привечерната позлата
и днес бродят нашите два силуета…
Широкополите бретонки ги изглеждат
изпод черните си пиявици-вежди
с поглед като океана син и намръщен.
И горят в залеза каменните къщи,
а сред вълните – призрачни като надежди –
оцелелите ладии се завръщат.

Dịch

Măt em sẽ mù đi
Và em sẽ là kẻ đáng nguyền, đáng rủa
Nếu em quên đi mùa hè này
Bên Đại Tây Dương và đôi bờ sông Lei
Trên những bãi cát rộng và êm
những dấu chân đôi ta còn lưu lại
Trong hoàng hôn rực vàng
Bóng đôi ta còn lượn quanh đâu đấy
Những người đàn bà Bretagne, váy rộng nếp
đã nhìn đôi bóng chúng ta, mày nhíu lại
với ánh mắt xanh và trầm lặng như đại dương
Mặt trời sắp lặn nhuộm đỏ những ngôi nhà tường bằng đá dựng
Trên những con sóng xa vời, yêu ma như niềm hy vọng
những con thuyền, thoát cơn dông bão, nhằm hướng cảng trở về

Cô gái có đôi mắt xanh Синеоката

Ей, ти, орис, мен орисана!
Майко моя, жалбо моя люта!
Как да кажа, как да бъза чута –
тъй било от бога писано.
Нямам ли сукна отрезани
и не съм ли млада, белолика?
Нямам ли снага на трепетлика,
тънки ризи, тежки везани?
Не мета ли ширни дворове
рано сутрин с китка на косите?
Песни ли не пея кръшно вити
по седенки и сборове?
Що ми са очи черничеви,
тъмносвилени косите? –
Той ги, майко, даже не поглежда.
Днеска го видях край чичови –
караше на паша стоката.
Беше му лицето восък бледно.
Ни ми проговори, ни погледна.
И разбрах тогава, аз, горкана:
той обеча синеоката,
дато снощи другиму пристана.

Dịch

Ôi, số kiếp tôi sao mà hẩm hiu
Và mẹ, mẹ ơi, nỗi đau của con đang cháy bỏng
Nói với mẹ sao đây? Làm sao cho ai đó hiểu lòng con
Thượng Đế muốn vậy rồi, ai dám cưỡng
Con chẳng có nhiều chăn đệm đẹp là gì?
Con chẳng mặt hoa da phấn đấy sao!
Thân con mảnh mai dẻo mềm như liễu
Áo cánh con vải mỏng, thêu nặng chỉ màu
Sân rộng kia con quét kém ai đâu
Và một bông hoa cài lên mái tóc
Con biết hát những bài hát vui
Trong những ngày hội hè giỗ chạp
Ích gì đâu đôi mắt màu dâu chín của con
Ích gì đâu đôi chân mày và suối tóc lụa đen
Con thấy anh ấy mới đây bên nhà chú
Anh đang cho bò ra đồng ăn cỏ
mặt anh tái nhợt màu sáp ong
Anh chẳng nhìn, chẳng nói
Và con đã hiểu ra, ôi khốn khổ đời tôi
Anh ấy phải lòng cô gái mắt xanh, không ai khác
cô gái đã bị một kẻ nào đó bắt đi
từ chiều hôm trước

Qua bà viết này của chúng tôi, chắc hẳn các bạn đã có thể cảm nhận được tài năng và tâm hồn của nhà thơ Phạm Hổ. Những bài thơ dịch này của ông được nhiều độc giả tìm kiếm và yêu thích. Đồng hành cùng chúng tôi để theo dõi những bài viết hay nhất nhé các bạn!

Xem Thêm: Tuyển chọn những bài thơ dịch Phạm Hổ hay nhất mọi thời đại phần 1