Trời một phương (1962) – Tập thơ Vũ Hoàng Chương hay phần đầu

Thơ Vũ Hoàng Chương mang một dấu ấn rất riêng và cũng rất độc đáo hấp dẫn đối với những người yêu thơ. Để rồi ở đó ta cảm nhận được một dấu ấn của con người chất chứa sự hoài cổ. Dưới đây là tập thơ Trời một phương mà ông đã sáng tác. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bài thơ hay độc đáo này bạn nhé!

Tiếng gọi mẹ

Ngôn ngữ trần gian túi rách
Đựng sao đầy hai tiếng “Mẹ ơi!”
Văn tự chiếc xe mòn xọc xạch
Đường sang cõi Mẹ ngàn trùng xa khơi

Gọi lên bằng máu
Tim rã rời
Chép ra bằng nước mắt
Lửa thiêu hố trũng lệ tan thành hơi…
Nơi đâu sâu thẳm gặp cao vời!
Mẹ còn hay đã mất?
Cao sâu đâu là nơi?
Tin hoa một sớm thơm đầy đất
Lòng cỏ ba xuân nát tới trời.

Nước có nguồn nên sầu chẳng tắt
Mây không bến gió mưa càng dằn vặt
Con còn nhớ Mẹ – có bao giờ… bao giờ nguôi!
Chuyến tàu chở Mẹ – làm sao… làm sao không
phản hồi?
Nhưng bánh xe quay đường chỉ một chiều thôi.
Mẹ đang đi cũng là đang trở về.
Ngàn năm ức triệu năm sau nữa
Thời Gian tròn một chu kỳ…
Con nguyện nằm đây làm khối Vô Vi
Giữa sáu mặt giá băng, hàng vạn độ dưới độ hàn
chết chóc,
Liều thí nghiệm giấc trường miên khoa học
Chút hơi tàn may sẽ kéo dài tơ
Để mạch sống luồn qua sợi tóc
Con chờ,
Son sắt con chờ
Bước Mẹ về như đũa thần chạm tới,
Luồng điện ngủ phá tung dây quật khởi;
Mẹ sẽ cùng con
Tay sắt lòng son
Bẻ ngược máy Huyền Vi cái Mất đổi ra Còn
Ôi Cỏ Vong Ưu! hãy kết Khải Hoàn Môn
Và Chữ Viết! ta phong ngươi Xe Bắc Đẩu
Và Tiếng Nói! ta phong ngươi Túi Càn Khôn.
Chở hết về đây cả ngàn phương Mẫu tự
Chứa hết về đây cả ngàn phương Sinh ngữ.
Để ta đủ chữ
Viết giòng vui mừng
Để ta đủ tiếng
Nói lời rưng rưng.
Giòng này dài hơn độ dài nối liền trong thân người
muôn mạch máu
Lời này vang như âm vang hòa điệu trong một người
hai trái tim…
Trỏ vòng hoa tang chợt Mẹ bảo:
Kìa xuân lượn bướm ca chim
Hoa đã nở thành vòng quỹ đạo
Ngát mùi hương cổ kim.

Trông ra vũ trụ im lìm
Con ngoảnh lại: khói ban thờ rã cánh!
Choãi dần vòng hương nhòa dần nụ cười
Bóng Mẹ chìm sâu bức ảnh
Không Gian mờ loãng chơi vơi…
Con thét lên… không còn phải giọng người!
Con khóc lên… không còn phải lệ rơi!
Hôm nay mồng một Tết
Con đập vỡ Đất Trời
Hồn lạnh xương khô hai đáy huyệt
Mẹ có nghe tròn tiếng gọi của con không?

Cười vang giữa cuộc đời

Một phen núi chuyển sông dời
Ngẩn ngơ gạch đá tơi bời cỏ cây
Sầu Nam Bắc nhớ Đông Tây
Xuân sang nghe cũng bùn rây áo đào
Chống tay giọt lệ tuôn trào
Ngó sâu nước vẩn nhìn cao mây mờ
Đã toan khép chặt lầu Thơ
Đầy song cũng chả buồn vơ bóng thiều
Tình đời gươm những muốn kêu
Việc đời toan những lửa thiêu men vùi
Mây kia rằng tiến rằng lui
Tơ xanh bông trắng ngậm ngùi hành nhan
Giả thân nằm đối chân thân
Nửa đêm giữa cuộc phong trần cười vang
Đá đâu lên tiếng thay vàng
Gỗ đâu mở mắt hai hàng bạch dương.

Hồi sinh

Một tiếng tơ buông – điệp điệp trùng
Âm ba truyền mãi ngấn vòng cung
Nghe như mở tiếp vào da thịt
Nguồn máu vi ti gợn tới cùng

Giây khắc bầu băng tưởng vỡ tan
Mũi tên kêu vút khỏi cung đàn

Chúng tôi có mặt đây Người ạ!
Muôn mảnh tình phai nếp mộng tàn

Chúng tôi đã sống một thời xưa
Thuở nắng liền đêm nguyệt giữa trưa
Người chắt chiu tình gom góp mộng
Trái tim vô số đựng chưa vừa…

Trên bến Thời Gian khúc ngoặt nào
Bỗng tình thôi đón mộng thôi trao
Con đò Dĩ Vãng không cần chuyến
Đã lượm tàn phai tự ghé vào

Bờ phía bên kia huyệt sẵn rồi
Nhưng xuân hờn mãi – Chúa không ngôi!
Thu sang lại Quỷ mồ thu khóc…
Người có đành đâu mất chúng tôi!

Nên vẫn còn đây mộng với tình
Đầu thai cung bậc để hồi sinh
Môi trường giao cảm vừa ba động
Nhập điệu, Người ơi, hãy chính mình!

Xuân mới

Ra đi chẳng nhớ tự đêm nào
Đến đây không biết đây là đâu
Ngẩng đầu: khuôn chữ mới
Vàng sao ngậm chặt nghĩa Thiên Thư.

Cúi xuống dò thăm mạch địa từ:
La bàn kim chết đứng…
Thời Gian bước hững
Ra ngoài Hiện Hữu rồi chăng?

Không Gian cũng vặn mình
Cả ba chiều gẫy thăng bằng.
Trượt qua điểm Uốn
Hệ Thái Dương vừa đổi dấu Âm.

Kỷ niệm mang mang tràn về tâm hồn
Trăng đứng ra làm định tinh.
Hoa từ nay có mặt nhưng vô hình;
Nắng tím đốt không phai: Chỉ là bóng!
Chỉ là hương: Gió hái mỏi rời tay…

Bức tranh “Vũ trụ hồi nguyên”
Phá hết khung phương hướng.
Nét Thủy hình Kim chen cài Thổ Mộc
Ánh lên màu Hỏa thành Thơ…

Lật ngược Càn Khôn tìm đáy túi,
Bắt được Mùa Xuân Tình Cờ.

Bơ vơ

Mòn con mắt đợi cổng trường
Người ta về… các ngả đường xôn xao
Bóng ai nào thấy đâu nào
Mây càng thấp gió càng cao… một mình
Không gian ngoảnh mặt làm thinh
Giọt mưa xuân cũng vô tình trêu ai
Mưa đầy tóc gió đầy vai
Sầu theo bốn hướng trôi dài tâm tư
Mong càng thêm… nhớ càng như…
Lẽ đâu tới phút này ư chưa về
Một mình gieo bước nặng nề
Gió tung xác lá bên hè tả tơi
Hồn chênh vênh bóng chơi vơi
Đất cong mặt giận chân trời lảng xa.

Nhớ Bắc

Phách dựng hồn lên đỉnh nhịp ba
Đàn chìm sâu tận đáy xương da
Chĩu mười năm mộng khoang thuyền khói
Nghiên trái tim đèn nửa mặt hoa
Bến cát đìu hiu – nghe gió lọt
Mành thưa – nghẹn lệ vỡ hơi ca
Một cung bùn ngập tràn phương Bắc
Lửa quỷ ai thiêu rụng ngón ngà.

Khai sinh

MÂY chợt hiện hình ra mặt giấy
Bắt đầu Bài Thơ.
Hỏa sơn từ bao đời câm tiếng
Vươn mình lên mở miệng
Uốn cong lưỡi lửa đánh vần:
Một phụ âm và hai nguyên âm.

Dấu mũ trên chữ A
Là chim bay lộn ngược
Trên nền trời giấy trắng bao la.
Trùng dương vội vàng in lấy bóng
Chim bay dìu mây bay.

Nhìn xuống trang thơ – đâu rồi nét mực?
Chúng ra đi bất chấp giấy thông hành.
Ta đòi – chỉ được trả hồi thanh.

Mây và chim kết thành
Đôi tị dực bay về Vô Cực…
Không Gian thầm lo:
Sợ chúng tới đầu kia là chính mình sẽ hết.
Cho nên tự kéo dài ra…
Từng phút dài thêm nữa…
Dài mãi đến thành một giải lụa
Đến thành một sợi dây.
Bỗng đầu dây bật mạnh sức đàn hồi
Mây lại nằm nguyên trên giấy đây thôi.

Hỏa sơn cười sặc sụa
Rung chuyển vòng đai biển Thái Bình,
Một lần nữa uốn cong lưỡi lửa
Ngùn ngụt thi nhau tập đánh vần:
Một phụ âm và hai nguyên âm…
Học trò mới – ào ào lớp sóng
Lưỡi mặn cứng phát âm còn ngọng
Bắn tung nước bọt
Ướt nhòe đêm trăng.
Này trông: Non Biển đầy trang
Về kia xếp lại thành hàng!
Ta có bài thơ Vũ Trụ.

Vì cánh chim ngược trời bay chỉ là dấu mũ
Trên chữ A.
Và đám mây kỳ diệu của ta
Chỉ là mây quốc ngữ.
Thì hỏa sơn trùng dương
Cũng hiện cả lên thành danh tự
Cao nằm chót vót tràn dâng mênh mang.
Động, tĩnh… gồm hai qua ý chữ
Vần bằng, vần trắc liên hoan.

Ôi vạn vật hoài thai trong thi tứ!
Các ngươi được khai sinh nhờ Văn Tự.
Thơ ta làm nên Không Gian.

Nhịp bắc phản

Lưu Lang có phải tiền thân?
Mặc cho bãi bể mấy lần nương dâu.
Tầng rêu khe đá bụi ngầu
Vung tay gỡ thử mối sầu Thiên Thai.
Trùng du Nam Phố – Trùng Dương tiết
Cuộc truy hoan mài miệt trắng bao đêm
Những vì ai khoảnh khắc trái tim mềm
Đã nửa kiếp lăng tằng – ai đấy nhỉ?
Thị dã – bất tài minh chủ khí?
Phi hồ – đa bệnh cố nhân sơ!
Đắm hồn say trong tiếng trúc tơ
Nhịp Bắc Phản đêm mưa càng thánh thót.
Quanh ngọn lửa vẫn oanh chào yến hót
Mấy tang thương còn một thú yên hoa
Nhìn nhau – ta lại là ta.

Liễu hờn

Sắc mới vừa xanh xanh
Như khói như mi thầm giấu tiếng oanh
Vườn cấm nghiêng tơ ngày ba lần gỡ mộng
Ngắt nửa cầu sương cùng đón đưa một cành
Sáo ngọc nhà ai kìa gió xuân tàn ngược
Cô gái mười lăm nào lưng nhỏ thanh thanh!
Rồng phượng thuyền ai mà phấn hương rời rụng!
Trường đê rủ oán càng thương ai thương mình…
Đài Chương rêu ngậm
Đá nín ba sinh
Một cơn… biết mấy vô tình!
Đào Lệnh Vương Công hề có xót điêu linh?

Ấm lạnh

Yêu nhau từ thuở tóc còn buông
Một gái thơ ngây một gã cuồng
Khuya sớm vai kề vui đọc sách
Chung đèn chung cả ánh trăng xuông

Bẩy tám mùa hoa dệt trước lầu
Năm năm thương mến rễ càng sâu
Chia tay căn vặn lời sơn hải
Tạm biệt… ai ngờ vĩnh quyết đâu!

Lòng thu cỏ rối một chiều kia
Non động dừng chân gã trở về
Chỉ thấy Chương Đài trơ gốc liễu
Bướm gầy xao xác cánh hôn mê

Là thôi Gái thị thành kiêu bạc
Đã ấm giàu sang lạnh ước thề

Mộng ngày mưa

Bỗng hồi sinh một thời xưa
Nụ hé say chàng Bướm dại
Êm đềm giấc mộng ngày mưa
Ta đã cùng nhau gặp lại

Giòng máu tưng bừng ân ái
Đôi lòng một ước trăm năm
Tình chớm duyên đầu mê mải
Hào quang rờ rỡ trăng rằm

Xuân vừa kịp chín mười năm
Cô bé vai còn tóc xõa
Hồ thu sóng biếc nghiêng nằm
Gợn chút đào tươi cặp má

Giậu trúc gò cương tuấn mã
Song the nét gấm ngừng thoi
Ồ — bức tranh nào phong nhã
Sắc tài muôn thuở xứng đôi

Gần nhau trọn sáu năm trôi
Bên ngóng bên chờ khao khát
Này đêm tỏ mặt nàng Thôi
Yểu điệu bàn chân dấu cát

Ôi — trầm bốc mái Tây Hiên dào dạt
Nhưng trầm tan… tan cả mộng ngày mưa
Giậu trúc song theo dần loãng nhạt
Vó câu chìm với tiếng thoi đưa

Bụi Thời Gian xóa giàn dưa
Nhòa theo đến cả chút hương thừa.

Lá thư người đẹp

Đêm tà song chếch nở hoa mai
Chuông vọng Hàn San nguyệt Liễu Trai
Cạnh gối tờ mây nằm sát ngực
Từ e lệ tứ… nếp sơ khai

Đào rụng lời thơm suối chở vần
Ngược soi lòng chữ dáng thùy vân
Thiên Thai có suối này không nhỉ
Đào có mê tình, hỡi Ngọc Chân

Ý gọi duyên mà nhạc gửi yêu
Nét thơ đề biếc lá buông điều
Phải chăng Thần Nữ làm mưa gió
Nhẹ gót về xây giấc mộng chiều

Ơi hỡi!… non Vu sụp bốn tường
Canh dài nghe thẫm mấy bờ Tương
Ghì trang khuê bút tìm hư ảnh
Da nõn Lam Điền ngọc ấm hương.

Thôn ca

Ấy ai xuôi ngược bờ đê
Có đi tỉnh Bắc có về tỉnh Đông?
Giùm ai khẽ rỉ tai Hồng:
“Giải đồng tâm vẫn Cốm Vòng đeo đai”

Ai xuôi ngược đấy – Giùm ai
Xuống Nam nhắn chị lên Đoài nhủ em
Rằng: “Quê xưa vẫn êm đềm
Tình quê ngày một ngày thêm nặng tình”

Mạ tươi màu cốm xanh xanh
Lúa thơm hương rượu ngon lành dậy men
Vi vu tiếng sáo làng bên
Tre ngà đẩy cánh diều lên trăng ngà

Trời cao xa…. Đất bao la…
Xanh non màu cỏ xanh già màu mây
Cây đa hai bóng cùng say
Nhạc đong đưa…. Sáo diều hay áo chiều?

Núi chân Nam…. Sóng chân Chiêu…

Vàng trao bạc đổi ít nhiều men quê
Ba trăng tóc lúa chưa thề
Mây trường sơn khói trường đê não nùng.

Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương hay và đặc sắc nhất mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ cùng với bạn. Thông qua tập thơ này bạn có thể hiểu được phong cách sáng tác của nhà thơ này. Bởi ông xuất hiện như một ngôi sao chao đảo, mờ ảo và tan trong một làn khói chứa đầy hơi men. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo của tập thơ này bạn nhé!

Xem thêm: Trời một phương (1962) – Tập thơ Vũ Hoàng Chương hay phần cuối