Thanh hiên thi tập cùng nhóm thơ dưới chân núi hồng (Nguyễn Du) đặc sắc nhất Phần 1

Thanh Hiên Thi Tập là một tập thơ vang danh của nhà thơ Nguyễn Du. Thơ chữ Hán của ông cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông

Cả ba cuốn Thanh Hiên thi tập (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long), Nam trung tạp ngâm (1805-1812, khi Nguyễn Du làm quan ở Huế rồi cai bạ Quảng Bình) và Bắc hành tạp lục (1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa) đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm

Trong đó nhóm thơ Dưới Chân Núi Hồng của ông là được độc giả quan tâm hơn cả. Ngay bây giờ chúng ta cùng nhau đón xem những tác phẩm hay này nhé!

My trung mạn hứng 縻中漫興

鐘子援琴操南音,
莊錫病中猶越吟。
四海風塵家國淚,
十旬牢獄死生心。
平章遺恨何時了,
孤竹高風不可尋。
我有寸心無與語,
鴻山山下桂江深。

My trung mạn hứng

Chung Tử viên cầm tháo nam âm,
Trang Tích bệnh chung do Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương di hận hà thì liễu,
Cô Trúc cao phong bất khả tầm.
Ngã hữu thốn tâm vô ngữ dữ,
Hồng Sơn sơn hạ Quế giang thâm.

Dịch nghĩa

Chung Tử gảy đàn theo điệu Nam,
Trang Tích khi ốm ngâm nga bằng tiếng Việt.
Khắp bốn bể đầy gió bụi, nghĩ tình nhà việc nước mà rơi lệ,
Mười tuần nằm trong lao tù, lòng thấp thỏm chuyện sống chết.
Bao giờ mới hết mối hận Bình Chương?
Khó mà có được phong cách cao thượng của người nước Cô Trúc.
Ta có một chút tâm sự này, không biết bày tỏ cùng ai,
Dưới chân núi Hồng, sông Quế Giang sâu thẳm

Tặng Thực Đình 贈實亭

天鶴潭魚何處尋,
羅城一別十年深。
同年對面隔千壤,
往事回頭成古今。
白髮消磨貧士氣,
綈袍珍重故人心。
莫愁僻地無佳客,
藍水鴻山足詠吟。

Tặng Thực Đình

Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm?
La Thành nhất biệt thập niên thâm.
Đồng niên đối diện cách thiên nhưỡng,
Vãng sự hồi đầu thành cổ câm (kim).
Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí,
Đề bào trân trọng cố nhân tâm.
Mạc sầu tịch địa vô giai khách,
Lam Thuỷ Hồng Sơn túc vịnh ngâm.

Dịch nghĩa

Hạc trời, cá đầm biết đâu mà tìm?
Từ ngày chia xa ở La Thành chốc đã mười năm.
Bạn đồng niên mà xa cách nhau như trời với đất, khó lòng gặp mặt nhau,
Chuyện năm trước nay ngoảnh đầu lại đã thành chuyện cổ kim rồi.
Tóc bạc làm tiêu ma chí khí của kẻ sĩ nghèo,
Chiếc áo sồi anh tặng đủ chứng tỏ lòng quyến luyến của người bạn cũ.
Chớ lo cho tôi ở nơi hẻo lánh này không có bạn,
Sông Lam núi Hồng có nhiều cảnh đẹp, đủ để mà ngâm vịnh.

Phúc Thực Đình 復實亭

冬寒夏暑故侵尋,
老大頭顱歲月深。
京國鶯花千里外,
江湖簑笠十年今。
聚頭難得常青目,
理髮當知未白心。
藍水鴻山無限勝,
憑君收拾助清吟。

Phúc Thực Đình

Đông hàn hạ thử cố xâm tầm,
Lão đại đầu lô tuế nguyệt lâm.
Kinh quốc oanh hoa thiên lý ngoại,
Giang hồ soa lạp thập niên câm (kim).
Tụ đầu nan đắc thường thanh mục,
Lý phát đương tri vị bạch tâm.
Lam thuỷ Hồng sơn vô hạn thắng,
Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm.

Dịch nghĩa

Mùa đông lạnh, mù hạ nóng, lần lữa trôi qua,
Năm tháng chồng chất trên đỉnh đầu già cốc.
Cảnh chim hoa chốn kinh kỳ, nay đã ở ngoài ngàn dặm,
Mười năm rồi, sống giang hồ với áo tơi nón lá.
Thường khó gặp được những người bạn mắt xanh mà tụ họp cùng nhau,
Gỡ tóc mới biết lòng chưa được giải tỏ.
Sông Lam, núi Hồng đẹp vô cùng,
Tha hồ nhặt nhạnh để làm đề tài ngâm vịnh.

Hành lạc từ kỳ 1 行樂詞其一

俊犬黃白毛,
金鈴繫秀頸。
輕衫少年郎,
牽向南山嶺。
南山多香麋,
血肉甘且肥。
金刀切玉饌,
美酒累百巵。
人生無百載,
行樂當及時。
無為守貧賤,
窮年不開眉。
夷齊無大名,
跖蹻無大利。
中壽只八十,
何事千年計?
有犬且須殺,
有酒且須傾。
眼前得喪已難認,
何事茫茫身後名?

Hành lạc từ kỳ 1

Tuấn khuyển hoàng bạch mao,
Kim linh hệ tú cảnh.
Khinh sam thiếu niên lang,
Khiên hướng nam sơn lĩnh.
Nam sơn đa hương my,
Huyết nhục cam thả phì.
Kim dao thiết ngọc soạn,
Mỹ tửu luỹ bách chi.
Nhân sinh vô bách tải,
Hành lạc đương cập kỳ.
Vô vi thủ bần tiện,
Cùng niên bất khai my.
Di, Tề vô đại danh,
Chích, Cược vô đại lợi.
Trung thọ chỉ bát thập,
Hà sự thiên niên kế?
Hữu khuyển thả tu sát,
Hữu tửu thả tu khuynh.
Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận,
Hà sự mang mang thân hậu danh?

Dịch nghĩa

Con chó hay, lông vàng đốm trắng,
Cổ đẹp đeo chuông vàng.
Chàng trai trẻ mặc áo cộc,
Dắt đi về phía núi nam.
Núi phía nam lắm nai hương,
Huyết thơm, thịt béo.
Dao vàng thái món ăn quý,
Rượu ngon uống hàng trăm chén.
Đời người ai sống đến trăm tuổi,
Nên kịp thì vui chơi.
Tội gì giữ nếp nghèo,
Suốt năm không mở mày mở mặt!
Di Tề chẳng có danh lớn,
Chích Cược cũng chẳng giàu to.
Sống lâu chỉ tám mươi tuổi,
Cần gì tính chuyện ngàn năm.
Có chó cứ ăn thịt,
Có rượu cứ uống cho hết.
Chuyện trước mắt hay dở đã không biết,
Cần gì lo cái danh xa xôi sau khi chết!

Hành lạc từ kỳ 2 行樂詞其二

山上有桃花,
綽約如紅綺。
清神弄春妍,
日暮著泥涬。
好花無百日,
人壽無百歲。
世事多推移,
浮生行樂事。
席上有妓嬌如花,
壺中有酒如金波。
翠管玉簫緩更急,
得高歌處且高歌。
君不見王戎牙籌手自捉,
日日會計常不足。
三公臺傾好李死,
金錢散作他人福。
又不見馮道晚年稱極貴,
歷朝不離卿相位。
鐘鳴鼎食更還空,
千載徒留長樂敘。
眼前富貴如浮雲,
浪得今人笑古人。
古人墳塋已纍纍,
今人奔走何紛紛。
古今賢愚一丘土,
生死關頭莫能度。
勸君飲酒且為歡,
西窗日落天將暮。

Hành lạc từ kỳ 2

Sơn thượng hữu đào hoa,
Xước ước như hồng ỷ.
Thanh thần lộng xuân nghiên,
Nhật mộ trước nê trĩ.
Hảo hoa vô bách nhật,
Nhân thọ vô bách tuế.
Thế sự đa suy di,
Phù sinh hành lạc sự.
Tịch thương hữu kỹ kiều như hoa,
Hồ trung hữu tửu như kim ba.
Thuý quản ngọc tiêu hoãn cánh cấp,
Đắc cao ca xứ thả cao ca.
Quân bất kiến Vương Nhung nha trù thủ tự tróc,
Nhật nhật cối kê thường bất túc.
Tam công đài khuynh hảo lý tử,
Kim tiền tán tác tha nhân phúc.
Hựu bất kiến Phùng Đạo văn niên xưng cực quý,
Lịch triều bất ly khanh tướng vị.
Chung minh đỉnh thực cánh hoàn không,
Thiên tải đồ lưu “Trường lạc tự”.
Nhãn tiền phú quý như phù vân,
Lãng đắc kim nhân tiếu cổ nhân.
Cổ nhân phần doanh dĩ luỹ luỹ,
Kim nhân bôn tẩu hà phân phân.
Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ,
Sinh tử quan đầu mạc năng độ.
Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan,
Tây song nhật lạc thiên tương mộ.

Dịch nghĩa

Trên núi có hoa đào,
Đẹp như lụa đỏ.
Sáng sớm còn đùa giỡn với sắc xuân,
Chiều tối đã nằm trong bùn đất.
Hoa đẹp không được trăm ngày,
Người sống lâu, mấy ai được trăm tuổi.
Chuyện đời lắm đổi thay,
Sống kiếp phù sinh nên cứ vui chơi.
Trên tiệc có kỹ nữ đẹp như hoa,
Trong vò có rượu quí sóng sánh ánh vàng.
Tiếng thủy quản, tiếng ngọc tiêu khi mau khi chậm,
Được dịp hát to, cứ hát cho to.
Há không thấy Vương Nhung tay gẩy bàn toán ngà,
Ngày nào cũng tính toán mà trong bụng vẫn chưa cho là đủ.
Đài Tam công cũng đổ, cây mận ngon cũng chết,
Bạc vàng tiêu tan cho người khác hưởng.
Lại không thấy Phùng Đạo, lúc về già, phú quý xiết bao,
Trải mấy triều vua không rời chứ khanh tướng.
Thế mà miếng đỉnh chung rút cuộc vẫn là không,
Nghìn năm chỉ lưu lại có bái Trường lạc tự!
Phú quý trước mắt chẳng khác gì phù vân,
Người đời nay chỉ biết cười người đời xưa.
Người xưa chết, mồ mả vẫn ngổn ngang đó,
Người nay sao vẫn bôn tẩu rộn ràng?
Xưa nay, kẻ hiền người ngu cũng chỉ trơ lại một nấm đất,
Không ai vượt qua cửa ải sống chết.
Khuyên anh uống rượu rồi vui chơi,
Kìa trông cửa sổ phía tây, bóng mặt trời đã xế rồi.

Độ Long Vĩ giang 渡龍尾江

故國回頭淚,
西風一路塵。
纔過龍尾水,
便是異鄕人。
白髮沙中見,
離鴻海上聞。
親朋津口望,
為我一沾巾。

Độ Long Vĩ giang
Cố quốc hồi đầu lệ,
Tây phong nhất lộ trần.
Tài qua Long Vĩ thuỷ,
Tiện thị dị hương nhân.
Bạch phát sa trung kiến,
Ly hồng hải thượng văn.
Thân bằng tân khẩu vọng,
Vị ngã nhất triêm cân.

Dịch nghĩa

Ngoảnh nhìn quê hương, nước mắt rơi,
Gió tây thổi suốt dọc đường.
Vừa qua sông Long Vĩ,
Đã thành người đất khách.
Đi giữa bãi cát, càng trông càng rõ mái tóc bạc,
Nghe chim hồng lìa đàn kêu ngoài biển,
Bạn bè thân thích đứng trên bến nhìn theo,
Ví ta mà nước mắt ướt khăn.

Tạp thi kỳ 1 雜詩其一

壯士白頭悲向天,
雄心生計兩茫然。
春蘭秋菊成虛事,
夏暑冬寒奪少年。
黃犬追歡鴻嶺下,
白雲臥病桂江邊。
村居不厭頻沽酒,
尚有囊中三十錢。

Tạp thi kỳ 1

Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
Xuân lan thu cúc thành hư sự,
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ,
Bạch vân ngoạ bệnh Quế Giang biên.
Thôn cư bất yếm tần cô tửu,
Thượng hữu nang trung tam thập tiền.

Dịch nghĩa

Tráng sĩ đầu bạc ngửng nhìn trời, lòng bi đát,
Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt.
Xuân lan thu cúc đã thành chuyện hão,
Đông rét hè nóng cướp cả tuổi xuân.
Dắt chó đi săn, mãi vui dưới chân núi Hồng Lĩnh,
Trong mây trắng, nằm bệnh bên sông Giang Quế.
Ở thôn quê, thích nhất được mua rượu uống luôn,
Trong túi hãy còn ba mươi đồng tiền đây.

Tạp thi kỳ 2 雜詩其二

鴻山一色臨平渠,
清寂可為寒士居。
千里白雲生几席,
一窗明月上琴書。
笑啼殉俗干戈際,
緘默藏生老病餘。
葉落花開眼前事,
四時心鏡自如如。

Tạp thi kỳ 2

Hồng Sơn nhất sắc lâm bình cừ,
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư.
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch
Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư
Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thì tâm kính tự như như.

Dịch nghĩa

Núi Hồng một màu soi xuống làn nước phẳng,
Kẻ hàn sĩ có thể ở được nơi thanh tú tịch mịch này.
Mây trắng từ nghìn dặm bay đến bên giường,
Trăng sáng soi qua cửa sổ, chiếu vào túi đàn cặp sách.
Buổi loạn lạc, cười khóc cũng phải theo đời,
Thân già yếu nên im lặng giữ mình.
Chuyện trước mắt đổi thay như hoa nở lá rụng,
Quanh năm, cõi lòng vẫn thản nhiên như không.

Ký Huyền Hư tử 寄玄虛子

天台山前獨閉門,
西風塵垢滿中原。
田家不治南山豆,
貧戶常空北海樽。
野鶴浮雲時一見,
清風明月夜無言。
遠來誌取相尋路,
家在鴻山第一村。

Ký Huyền Hư tử

Thiên Thai sơn tiền độc bế môn,
Tây phong trần cấu mãn trung nguyên.
Điền gia bất trị Nam Sơn đậu,
Bần hộ thường không Bắc Hải tôn.
Dã hạc phù vân thì nhất kiến,
Thanh phong minh nguyệt dạ vô ngôn.
Viễn lai chí thủ tương tầm lộ,
Gia tại Hồng Sơn đệ nhất thôn.

Dịch nghĩa

Nhà tôi ở trước ngọn núi Thiên Thai, luôn luôn đóng cửa,
Gió tây tung cát bụi đầy trung nguyên.
Là nhà nông, nhưng tôi không trồng đậu ở núi Nam Sơn,
Nhà lại nghèo, thường để vò trống, không có rượu đãi khách như Khổng Dung.
Anh như hạc nội mây ngàn, thỉnh thoảng mới gặp,
Tôi ở đây có gió mát trăng thanh nhưng không ai chuyện trò.
Anh ở xa đến, thì hãy nhớ đường mà tìm,
Nhà tôi ở xóm đầu dãy núi Hồng.

Ký giang bắc Huyền Hư tử 寄江北玄虛子 

長安去不息,
鄉思在天涯。
天涯不可見,
但見塵與沙。
西風脫木葉,
白露損黃花。
珍重好自愛,
秋高霜露多。

Ký giang bắc Huyền Hư tử
Trường An khứ bất tức,
Hương tứ tại thiên nha (nhai).
Thiên nha bất khả kiến,
Đãn kiến trần dữ sa.
Tây phong thoát mộc diệp,
Bạch lộ tổn hoàng hoa.
Trân trọng hảo tự ái,
Thu cao sương lộ da.

Dịch nghĩa

Anh đi Trường An biệt tăm hơi,
Nhưng chắc vẫn nhớ quê hương ở tận chân trời.
Chân trời thì không thấy,
Chỉ thấy bụi và cát.
Gió tây thổi lá rụng,
Sương xuống làm hoa cúc rụng xác xơ.
Xin anh hãy giữ mình,
Càng vào thu, sương càng nhiều.

Ký hữu (I) 寄友

漠漠塵埃滿太空,
閉門高枕臥其中。
一天明月交情在,
百里鴻山正氣同。
眼底浮雲看世事,
腰間長劍掛秋風。
無言獨對庭前竹,
霜雪消時合化龍。

Ký hữu (I)

Mạc mạc trần ai mãn thái không,
Bế môn cao chẩm ngoạ kỳ trung.
Nhất thiên minh nguyệt giao tình lại,
Bách lý Hồng Sơn chính khí đồng.
Nhãn để phù vân khan thế sự,
Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc,
Sương tuyết tiêu thời hợp hoá long.

Dịch nghĩa

Cát bụi đầy trời mịt mù,
Đóng cửa gối cao nằm khàn trong nhà.
Trăng sáng giữa trời, tình bạn còn đó,
Non Hồng trăm dặm, cùng chung một chính khí.
Mắt xem việc đời như một đám phù vân,
Thanh kiếm đeo lưng trước làn gió thu.
Một mình im lặng nhìn đám trúc trước sân,
Sương tuyết tan rồi, nó sẽ hoá rồng.

Khai song 開窗

門前煙景近如何,
閒日開窗生意多。
六月培風鵬徙地,
一庭積雨蟻移窩。
青氈舊物苦珍惜,
白髮雄心空咄嗟。
再病尚須調攝力,
不知秋思到誰家。

Khai song

Môn tiền yên cảnh cận như hà?
Nhàn nhật khai song sinh ý đa.
Lục nguyệt bồi phong bằng tỷ địa,
Nhất đình tích vũ nghĩ di oa.
Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,
Bạch phát hùng tâm không đốt ta.
Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực,
Bất tri thu tứ đáo thuỳ gia?

Dịch nghĩa

Phong cảnh trước nhà, nay như thế nào rồi?
Nhàn rỗi, mở cửa sổ ra xem, thấy mọi vật vẫn vui tươi.
Chim bằng cưỡi gió bay luồn sáu tháng không nghỉ,
Sân đọng nước mưa kiến dời tổ đi.
Có chiếc nệm xanh là vật cũ, khư khư giữa mãi,
Tóc bạc rồi, có hùng tâm cũng ngồi than thở suông mà thôi.
Bệnh trở lại, phải lo điều dưỡng,
Không biết thu đến nhà ai?

Biệt Nguyễn đại lang kỳ 2 別阮大郎其二

送君歸故丘,
我亦浮江漢。
千里不相聞,
一心未嘗間。
夜黑豺虎驕,
月明鴻雁散。
兩地各相望,
浮雲應不斷。

Biệt Nguyễn đại lang kỳ 2

Tống quân quy cố khâu,
Ngã diệc phù Giang Hán.
Thiên lý bất tương văn,
Nhất tâm vị thường gián.
Dạ hắc sài hổ kiêu,
Nguyệt minh hồng nhạn tán.
Lưỡng địa các tương vương (vọng),
Phù vân ưng bất đoạn.

Dịch nghĩa

Tiễn anh về nơi ở cũ rồi,
Tôi cũng lại qua sông.
Cách nhau nghìn dặm, vắng tin nhau,
Lòng không hề nguôi nhớ.
Đêm tối sói hổ hoành hành,
Trăng sáng hồng nhạn tan tác.
Hai ta ở hai nơi, thường mong ngóng nhau,
Ước gì đám mây trôi trên trời không bao giờ đứt đoạn.

Biệt Nguyễn đại lang kỳ 3 別阮大郎其三

君歸我亦去,
各在亂離中。
生子交情在,
存忘苦節同。
柴門開夜月,
殘笠走秋風。
千里不相見,
浮雲迷太空。

Biệt Nguyễn đại lang kỳ 3

Quân quy ngã diệc khứ,
Các tại loạn ly trung.
Sinh tử giao tình tại,
Tồn vong khổ tiết đồng.
Sài môn khai dạ nguyệt,
Tàn lạp tẩu thu phong.
Thiên lý bất tương kiến,
Phù vân mê thái không.

Dịch nghĩa

Anh về thì tôi cũng đi,
Hai ta cùng sống trong buổi loạn lạc.
Sống hay chết, tình bạn vẫn nguyên,
Còn hay mất, tiết khí vẫn giống nhau.
Dưới ánh trăng, cửa tre để ngỏ,
Trong gió thu, anh đi đầu đội nón rách.
Nghìn dặm không trông thấy nhau,
Chỉ thấy mây trôi mờ mịt chân trời.

Trên đây, uct.edu.vn đã dành tặng bạn tập Thanh hiên thi tập đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Du. Mời các bạn đón xem phần 2 vào một ngày không xa. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!