Phân tích bài thơ Ngắm trăng (Vọng nguyệt) của Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Ngắm trăng (Vọng nguyệt) của Hồ Chí Minh ta sẽ thấy được dù trong ngục tù, bị giam cầm xiềng xích nhưng không ai có thể giam hãm được tinh thần của Người, một tâm hồn luôn hướng về cái đẹp, giao hòa cùng thiên nhiên, đất trời. Cùng phân tích, tìm hiểu sâu hơn bài thơ này qua bài viết sau đây của PUD nhé !

Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

Đôi nét về tác giả Hồ Chí Minh

  • Hồ Chí Minh sinh ngày 19/05/1890 và mất ngày 02/09/1969. Quê quán của Người ở làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
  • Cuộc đời của Người gắn liền với con đường hoạt động Cách mạng. Người đồng thời là nhà chính trị, nhà văn, nhà thơ lại là nhà Cách mạng của dân tộc.
  • Hồ Chí Minh là linh hồn của các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta. Người không chỉ được biết đến là một chiến sĩ mà còn được nhắc đến như một thi sĩ với nhiều tác phẩm có giá trị.
  • Phân tích bài thơ Ngắm trăng sẽ cho ta thấy được phong cách nghệ thuật và tài năng của Người.

Các nét chính về bài thơ Ngắm trăng

  • Bài thơ này  được trích trong tập Nhật kí trong tù
  • Khi phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh, ta nhận thấy tác phẩm được trích trong tập Nhật ký trong tù được Người sáng tác trong quá trình bị bắt giam và giải qua hơn 30 nhà lao thuộc 13 tỉnh của Quảng Tây, Trung Quốc.

Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh

Xuyên suốt mạch cảm xúc của tác phẩm là những dòng tâm trạng đầy thơ của Người. Để soạn bài, cảm nhận hay phân tích bài thơ Ngắm trăng, chúng ta cũng đi theo mạch cảm xúc này.

Hoàn cảnh ngắm trăng đặc biệt của Bác

Từ xưa đến nay, trăng luôn là nguồn cảm hứng bất tận của biết bao nhiêu thi nhân. Ánh trăng không chỉ mang lại vẻ đẹp cho khung cảnh mà hơn thế còn trở thành người bạn tri kỷ của người thi nhân. Vì vậy, người thi nhân khi gặp cảnh trăng đẹp thường sẽ mang rượu ngon để thưởng thức dưới ánh trăng viên mãn ấy. Thú vui tao nhã thi vị và lãng mạn ấy lại trở nên khác biệt trong hoàn cảnh ngắm trăng của Người.

Phân tích bài thơ Ngắm trăng ta thấy hoàn cảnh này thật đặc biệt, với thời gian nửa đêm, không gian là trong ngục tù với xiềng xích tối tăm, điều kiện thì không rượu cũng không hoa (vô tửu diệc vô hoa).

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?”

(Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ)

Câu thơ đầu tiên trong bài đã miêu tả rất thực cảnh lao tù khắc nghiệt. Nơi ngục tù lạnh lẽo đầy đọa tâm hồn con người, thế nhưng ánh trăng đã xuất hiện và khiến tâm hồn người thi sĩ thao thức hơn. Phân tích bài thơ Ngắm trăng ta nhận thấy rất cụ thể rằng người tù thi sĩ ấy tay bị xích, chân bị cùm, thân thể bị đọa đầy lạnh lẽo mà tâm hồn vẫn nồng ấm, thơ mộng, vẫn say mê thưởng thức vẻ đẹp của ánh trăng nên thơ.

Thông thường, người ta chỉ ngắm trăng khi tâm hồn thư thái, thảnh thơi. Thế nhưng người thi nhân ấy lại ngắm trăng trong khung cảnh vô cùng đặc biệt, với cuộc sống “khác loài người” không phù hợp với thú thưởng nguyệt thanh cao. Như vậy, khi phân tích bài thơ Ngắm trăng, ta nhận thấy người tù ấy khao khát được ngắm trăng một cách trọn vẹn.

Hiện thực tù ngục lạnh lẽo và xám ngắt, chân tay bị xiềng xích gông cùm có thể phủ định tất cả. Thế nhưng, trong tâm hồn của Người vẫn mang tâm thế tích cực, vẫn nóng bỏng trái tim yêu đời thiết tha. Để rồi, người thi nhân ấy đã phải thốt lên “Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ”. Đó phải chăng chính là sự rạo rực xao xuyến và tha thiết thưởng nguyệt của Người. Vầng trăng ấy ngời sáng như mời gọi và thúc giục thi nhân hãy phá tan xiềng xích mà ra chốn tự do, để thưởng thức ánh trăng đẹp.

Tình yêu thiên nhiên và phong thái ung dung của Bác

Ấy vậy mà hiện thực vẫn là thực tại khốc liệt với hoàn cảnh giam cầm trói buộc, để rồi việc thưởng nguyệt chỉ thu lại với cử chỉ lặng lẽ, âm thầm:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,

Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.)

Phân tích bài thơ Ngắm trăng, ta dễ dàng nhận thấy rằng, ở nơi bốn bức tường xà lim chật hẹp ấy không ngăn nổi tâm hồn lãng mạn và xúc cảm bao la của Người. Dường như người thi nhân muốn nhắn gửi đến trăng bao lời thầm thì, để nhắn nhủ, để thủ thỉ bao tâm tình của người chí sĩ cách mạng… Người đã thả hồn theo ánh trăng và cũng gửi vào đó biết bao khát vọng cháy bỏng về sự tự do.

Câu thơ cuối quả thực vô cùng tượng hình khi Trăng đã trở nên có hồn, có tâm tư qua biện pháp nhân hóa của tác giả. Phân tích bài thơ Ngắm trăng, ta thấy rằng vầng trăng ấy đã vượt qua mọi rào cản, vượt qua song sắt lao tù để ngắm thi nhân trong tù. Đến đây thì cả Người và trăng đều chủ động tìm đến nhau.

Phân tích bài thơ Ngắm trăng, người đọc dễ nhận thấy toàn bài dù không có một âm thanh nhỏ nào, cùng một không gian tĩnh lặng tuyệt đối trái ngược hoàn toàn cũng như làm tôn thêm tâm tư sâu thẳm của người và vật. Hai tâm tư ấy dẫu xa mà gần, dẫu gần mà như hòa làm một. Trăng là người, và người là trăng, ngắm nhìn nhau trong âm thầm và lặng lẽ, không nói bất cứ điều gì mà như nói được bao lời.

Hai vần thơ cuối còn làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần kì diệu của người thi nhân trong hoàn cảnh lao tù. Hiện thực tàn bạo với cũi sắt nhà lao, còn ngoài kia là ánh trăng lung linh thơ mộng, là thế giới của tự do. Sự đối cực ấy dường như cũng bất lực với tâm hồn tinh tế và khát vọng tự do của nhà thơ.

Khi phân tích bài thơ Ngắm trăng, ta thấy hai câu thơ nguyên tác đã thể hiện một cách đầy đủ hơn mối giao hòa đặc biệt của ánh trăng với người tù thi sĩ. Với lối đối rất chỉnh đã làm nổi bật lên sự giao hòa làm một của trăng và người. Song sắt nhà tù có thể chắn ở hiện tại, nhưng giữa nhân và nguyệt vẫn có mối giao hòa vượt ra cái ranh giới của không gian và thời gian. Người ngắm trăng trong hoàn cảnh ngục tù, trăng dường như cũng hiểu sự nhiệt thành ấy mà gửi gắm sự thơ mộng đến Người.

Giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài thơ Ngắm trăng

Khi phân tích bài thơ Ngắm trăng, ngoài nội dung tư tưởng của tác phẩm, ta thấy một số nét đặc sắc trong nghệ thuật như sau:

  • Hồ Chí Minh đã sử dụng thể thơ tứ tuyệt giản dị. Chính điều này đã giúp cho cảm xúc được thể hiện một cách tự nhiên, toát lên được tâm hồn tự do và lạc quan, làm chủ hoàn cảnh của người tù cách mạng. Phân tích bài thơ Ngắm trăng sẽ cho người đọc thấy rất rõ tác dụng của thể thơ này.
  • Bên cạnh đó, phép đối xứng đối lập được sử dụng triệt để và hài hòa, giao hòa của cả ba yếu tố là “nhân, song, nguyệt”. Chính phép nghệ thuật này đã giúp thể hiện được cuộc vượt ngục về tinh thần của người tù cách mạng, nhân và nguyệt đã chủ động đến với nhau như người bạn tri kỷ. Điều này đồng thời cũng cho thấy sự tự do về tâm hồn của Bác.
  • Biện pháp nhân hóa được sử dụng tinh tế, nhân hóa ánh trăng và khiến ánh trăng trở nên có linh hồn, có tâm tư như con người vậy. Một vật vô tri mà như trở nên sinh động, và cũng chỉ có người tù với tâm hồn rộng mở ấy mới có thể đến với trăng. Chính biện pháp nghệ thuật này đã thể hiện được ý chí cũng như tư tưởng của Người lớn lao như nào, dù ngục tù xiềng xích cũng không thể làm gì được.

Như vậy, phân tích bài thơ ngắm trăng đã cho ta thấy vẻ đẹp tuyệt vời của ánh trăng cũng như tâm tư và khát vọng tự do trong tâm hồn của người tù – người chiến sĩ và cũng là người thi sĩ tài hoa. Ngắm trăng (Vọng nguyệt) được Hồ Chí Minh sáng tác theo thể thơ tứ tuyệt, chỉ với 28 chữ súc tích cô đọng biết bao về bức chân dung tâm hồn người chiến sĩ cộng sản.

Bài văn mẫu: Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh

Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại một người cha già của dân tộc. Người là một nhà cách mạng sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam éo trong việc hành văn của Bác. Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, giải đi gần 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây bị đày đọa hơn một năm trời. Thời gian này người đã viết Nhật kí trong tù gồm 113 bài. Bài thơ nhắm trăng được trích từ tập thơ này. Bài thơ ghi lại cảnh ngắm trăng trong tù tư đó nói lên tình yêu trăng yêu thiên nhiên tha thiết mong muốn được hòa mình vào trong thiên nhiên cảnh vật.

Trong câu thơ đầu tác giả đã kể ra những thiếu thốn trong tù:

“Trong tù không rượu cũng không hoa”

Trong tù thì thiếu thốn biết bao nhiêu là thư nào là cơm nước quần áo nào chăn màn nhất là trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch thì cái thiếu thốn ấy lại càng được tăng lên gấp bội khi giam cầm một nhà chính trị một nhà cách mạng. Nhưng đối với Hồ Chí Minh thì những thứ thiếu thốn lại là “rượi” và “hoa”phải chăng bởi đó là những thư không thể thiếu khi người thi nhân ngắm trăng ngắm vẻ đẹp của chị Hằng. Bởi khi có rượu có hoa thì mới đủ thi vị ngắm trăng, khi đó người thi sĩ sẽ không còn cảm thấy cô đơn với thiên nhiên nữa. Trong tù thiếu thốn là thế nhưng tác giả kể với một tâm trạng hoàn toàn vui vẻ chấp nhận mọi thiếu thốn hoàn cảnh. Theo lẽ thường thì khi bị nhốt trong tù thì con người ta sẽ thường ngột ngạt khó chịu và thơ viết muộn phiền cả ngày. Nhưng đối với tâm hồn yêu thiên nhiên của Hố Chí Minh thì hoàn toàn khác. Trong tâm trí của người lúc nào cũng là thiên nhiên là cảnh vật, yêu thiên nhiên muốn ra ngoài làm bạn với thiên nhiên nhưng tâm trạng nhà thơ không giống như Tố Hữu bức bối khi nhìn thấy thiên nhiên

“Ngột làm sao chết uất thôi

Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu”

Hồ Chí Minh đã quên đi cái thân phận của người tù đã quên đi tất cả những cơ cực của nhà tù để đón nhận thiên nhiên đón nhận vẻ đẹp của ánh trăng đón nhận một đêm trăng đẹp với tư cách một thi nhân hơn nữa là một thi gia. Vẫn tâm trạng đó được nhuốm màu sang câu thơ tiếp theo.

“Đối thử lương tiêu nại nhược hà

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”

trong thơ nguyên tác câu thơ thư hai là hỏi nhưng trong bản dịch lại là câu trần thuật làm mất đi cái ý tưởng đẹp của câu thơ, Sự bói rối xúc động trong bản dịch cảu nhà thơ bị mất đi thay vào đó là sự phủ định « khó hững hờ », sự bối rối xúc động của nhà thơ không còn nữa. Trước cảnh đẹp đêm trăng như thế người thi sĩ không biết làm thế nào khi cảnh đẹp huyền ảo như thê, Nhà thơ không thể cưỡng lại được vẻ đẹp của thên nhiên, Câu hỏi tự nhiên ấy cho thấy lòng yêu thiên nhiên say đắm và khát khao được thưởng thức cái đẹp của Bác. Ta thấy câu hỏi ấy là một câu hỏi băn khoăn đối với người đọc nhưng đối với Bác đó là một câu hỏi tu tư nhằm nhấn mạnh cách giải quyết tối ưu của mình. Anh trăng thanh khiết vời vợi kia như thúc giục mời gọi thi nhân hãy ra ngoài chốn tự do đểgiao hòa chia sẻ. Thế là mặc thiếu thốn vật chất thiếu thốn “không rượu cũng không hoa” mặc không gian chật hẹp của nhà tù mặc cho song sắt ngoài cửa sổ hai tâm hồn đó hào nhập vào nhau thả hồn cho nhau và Bác gửi gắm vào đó khát vọng tự do và người tù nhắm trăng với một tâm thế (vượt ngục ).

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng ong khích khán thi gia”

Trong bản dịch là

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Hai câu thơ bản dịch cũng kém phần dăng đối hơn so với phiên âm hơn nữa tư nhòm và nhắm trong bản dịch là hai từ đồng nghĩa khiến cho bản dịch không đảm bảo được sự cô đúc cả ý tứ của thể thơ. Trong hai câu thơ bác sử dụng nghệ thuật đăng đối tài tình và sử dụng nghệ thuật nhân hóa đúng lúc làm cho trăng và người trở nên gần gũi thân thiết trở thành tri âm tri kỉ cùng hành động như nhau cùng vượt qua song sắt của nhà tù để đến với nhau. Ở đây trăng và người đều là sự hóa thân cảu Bác, sự hóa thân của một tâm hồn vừa là nghệ sĩ vừa là chiến sĩ yêu tự do chủ động tìm đến cái đẹp mà không nhà ngục nào ngăn cản được

Trong bài thơ này quan hệ giữa người và trăng là quan hệ gần gũi bình đẳng. Trăng có vẻ đẹp của trăng người có vẻ đẹp của tâm hồn Trăng vượt song sắt của nhà tù không ngắm tù nhân hay người bị giam mà ngắm thi gia. Đây là giây phút thăng hoa tỏa sáng trong con người Bác và đây cũng là lần đầu tiên Bác tự thi gia. Trong giây phút này chỉ với tư cách là thi gia mới có thể giao lưu thân mật cùng ánh trăng kia. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ, niềm khao khát muôn đời của các thi nhân. Vậy mà nay vầng trăng lên mình qua song sắt chật hẹp, đặt chân vào chốn lao tù ẩm ướt để chiêm ngưỡng nhà thơ hay chính là tâm hồn nhà thơ vậy. Điều đó thể hiện vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh

Tác phẩm cho thấy cho dù ở trong hoàn cảnh dặc biệt bị giam hãm trong tù không có rượu cũng chẳng có hoa nhưng Bác vẫn không hề chán nản tuyệt vọng mà ngược lại người vẫn giữ được phong thái ung dung tự tại và hòa mình vào thiên nhiên hơn nữa người đã hoàn thành một cách ngoạn mục cuộc vượt ngục bằng tinh thần để rồi đắm mình trong không gian rộng lớn mênh mông và thơ mộng cùng ánh trăng ngoài song sắt nhà tù

Nghệ thuật trong bài ngắm trăng của Bác giống như các cuộc ngắm trăng khác trong những bài thơ bác viết khi chịu cảnh tù đày. Song có thể nói mỗi bài thơ bác viết và trăng lại có những nét riêng:trăng đầy sức sống đầy sức xuân trong Rằm tháng giêng trăng thi vị và tri kỉ trong Báo tiệp. Nói chung trong tất cả những bài thơ này bác đều đã cho người đọc thấy vẻ đẹp của một tâm hồn thi sĩ luôn mở rộng lòng để giao hòa cùng với thiên nhiên.

Cuộc ngắm trăng của Bác diễn ra qua bốn dòng thơ nhắn gọn mà ta thấy được cái hồn hòa nhập vào thiên nhiên, quyến luyến gắn bó với thiên nhiên của một vị lãnh tụ. Với Bác bất cứ ai ngắm trăng thì cũng được trăng ngắm lại vẻ đẹp của con người cũng đử sức làm say đắm vầng trăng. Điều đó không chỉ khẳng đinh cái hay mới lạ trong bút pháp mà còn thấy được nét tinh tế hiện đại của Người khi tìm đến một thi liệu đã quen thuộc trong cổ điển

Ngắm trăng thưởng thức trăng đối với Bác Hồ là một tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do, tự do cho con người và tự do và tự do hưởng mọi vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở. Dù trong hoàn cảnh nào Bác vẫn luôn hướng đến thiên nhiên hòa nhập vào thiên nhiên.

Phân tích bài thơ Ngắm trăng, ta thấy người chiến sĩ ấy không chỉ yêu thiên nhiên với tinh thần mạnh mẽ đầy lạc quan mà còn luôn hướng về tương lai. Đây cũng chính là chất thép trong bản lĩnh nghị lực phi thường của Người. Hy vọng bài viết về chủ đề Phân tích bài thơ Ngắm trăng, đã cung cấp cho bạn những kiến thức hữu ích phục vụ quá trình học tập của mình. Chúc bạn luôn học tập tốt!

  • Xem thêm >>> Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng [BÀI VIẾT HAY]