Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập Bút nở hoa đàm phần thứ ba (2)

Bút nở hoa đàm là một sáng tác của nhà thơ Vũ Hoàng Chương rất hay và độc đáo. Thông qua tập thơ này ta có thể hiểu được tại sao ông lại được đánh giá chính là người đã hái được cành hoa từ bi làm bút viết. Và cũng chính là thi sĩ xứng đáng nhất của lịch sử đấu tranh bất bạo động cho hòa bình ở Việt Nam. Dưới đây là phần cuối cùng trong tập thơ Vũ Hoàng Chương đã viết.

Sứ mạng lịch sử

Trời thủng, ngàn xưa đã có ngay
Nữ Oa đội đá vá liền tay.
Sao tình nhân loại chưa ai vá?
Chẳng lẽ Nàng Thơ cũng ngủ say!

Ngả nào sinh lộ

Tuổi xanh máu đỏ ngập sông dài
Hỏi mỹ nhân còn đẹp với ai!
Mấy kiếp tiền sinh hằn mặt đá
Con đường sống, vẫn cửa Như Lai!

Tin tưởng muôn đời

Chặt vụn cây kim mấy mặc dầu,
Chỉ Nam chỉ Bắc vẫn hai đầu
Cùng nương tựa để tìm phương hướng,
Từ tính nào ai huỷ được đâu!

Nối lửa từ bi

dân tộc ta không thể nào thua!
đạo pháp ta đời đời xán lạn!
dầu trải mấy qua phân ly tán,
bị áp bức, phao vu, bội phản,
nhưng vẫn còn Núi còn Sông, còn chót vót
mãi ngôi Chùa.
hỡi kẻ sống không tim! Kìa muôn người
chết không mồ
đang ngồi dậy – chẳng sức gì ngăn cản –
nối tiếp nhautrong một lời hô:
“trả lại chúng ta ngày PHẬT ĐẢN!
chấm dứt đi mau ngày QUỐC NẠN!”
và từng mảnh thịt xương rã rời bom đạn
vùng đứng lên gào thét vỡ sông hồ,
khắp bãi biển hoang liêu
khắp rừng cây rách nát:
Đà Nẵng Đà Lạt
Sài đô Huế đô…
vùi nông, những nắm xương khô
từng oan thác, cũng đội mồ bước lên.

mỗi Phật tử bên kia bờ thảm sát
dầu vong thân vẫn chí sắt son bền,
đang trở về trong tình thương bát ngát
theo nhịp cầu chuông mõ nối hai bên.
hồi thanh sáu ngả vang rền!

cuộc tranh đấu vượt ra ngoài giới hạn
của TỬ SINH… Mầu nhiệm Pháp Vô biên!
suối Hùng lực mấy muôn thu chẳng cạn,
nước cành dương tẩy xoá mọi oan khiên…

chúng ta may còn sống
lẽ nào chưa xúc động?
chưa lắng nghe tiếng gọi triền miên
đã ngân vang SÁNG TỐI cả hai miền?
ôi, từ Phật mở kỷ nguyên,
tháng tư nguyệt chẳng đoàn viên, cớ gì?

tiếng niệm Phật chảy dài trang lịch sử,
mười phương tín đồ tăng ni
trái tim thày QUẢNG ĐỨC
vừa rung lên phơi phới Đạo kỳ.
ức triệu người hôm nay lòng sáng rực
sau ba năm nguyện nối LỬA TỪ BI…
giòng trôi mưa nắng kể chi;
lửa dâng cao, gió huyền vi sang mùa!

lẽ thường: ngôi Chúa ngôi Vua
dựng trên súng phải tiêu vong dưới đạn
chỉ còn lại tinh thần Nhân Bản
vằng vặc NÚI SÔNG chót vót NGÔI CHÙA.
nên dầu bị qua phân ly tán,
bị áp bức, phao vu, bội phản
đạo PHẬT ta vẫn đời đời xán lạn!
dân VIỆT ta vẫn không thể nào thua!

Nhắn qua biển lớn

gan ruột bên kia biển Thái Bình
quặn đau theo bước mỗi tù binh.
ví đem mở rộng lòng thương ấy
đủ thắng rồi… đâu phải viễn chinh!

ôi, mở lòng thương ra bốn biển,
xương khô thịt héo cũng hồi sinh!
ngàn xưa thiên hạ xưng Vô Địch
kẻ xót người như xót chính mình.

thu hẹp xót thương vào giới tuyến
đồng bang đồng chủng với đồng minh
là thu hẹp lại vòng giao cảm;
hoài sức truyền thanh tiếp vận hình!

cùng xót cùng thương nhau một kiếp
phù du… may đổi nhục làm vinh.
địa cầu mai mốt không Nhân Loại
có ích gì chăng lũ vệ tinh?

Chuông chùa Diệu Đế

tặng Luna 9

tuổi thế kỷ SÁU MƯƠI vừa lẻ SÁU
lịch mặt trời ghi: tuyết rã băng tan.
lắng trên giòng Thời Gian:
mùa Bảo Bình nghiêng đổ
vách đêm sâu, con đường Sữa đăm chiêu…
cũng là đêm đầu tiên
mùa xuân Á Châu mừng gương nguyệt tròn
theo lịch của người đời thượng cổ
lấy Mặt Trăng làm điểm tựa chon von;
như đã lấy Nông làm Thần
trỏ các ngôi sao đặt tên: Cái Sàng, Cái Đấu,
nghe tiếng nổ tinh vân
thành nhạc lúa vang ròn.

phải rồi, đêm nay là NGUYÊN TIÊU
của Hương Cảng, Đông Kinh,
Vọng Các, Sài Gòn.
mặc dầu trăng xế ngàn dâu
hay đứng trên đầu vằng vặc
hay đang vượt chân trời lấp ló sườn non…

lưng chừng canh khuya TRÁI HỢP KIM
ghé bến vòng sao du mục.
từ lúc ra đi hướng nổi phương chìm
đã mấy thời gian đằng đẵng;
nay mới được buông xuôi đường thẳng
ngược lẽ “Hoá sinh” tự bóc mình ra
để phút chốc mang hình một đoá hoa,
giữa khoảng chân không xoè bốn cánh
rơi xuống NGUYỆT CẦU
chẳng khác trùng dương hạ cánh âu…

nơi ngày xưa thi bá Nguyễn Tiên Điền
với Cao Chu Thần, Lão Đổ, Trích Tiên
vẫn gọi là “Cung Quảng”
vừa thoáng rung khuôn mặt đá mềm.
khí quyển bao quanh vô cùng nhẹ loãng
sao có được âm thanh?
chỉ thấy điện ba dài ngắn tung hoành.

ôi, TRÁI kết thành HOA
ắt nở HOA thành NỤ
và NỤ chuyển thân về HẠT nguyên trinh!
Nguyệt Cầu muôn thủa vệ tinh
của Trái Đất, chưa một lần hội kiến;
khuya nay khối hợp kim này đại diện
tới gieo mầm tương cảm đó chăng?
sứ giả kia ơi, còn rung động nào bằng?

Nhưng KHỐI HỢP KIM chẳng là Địa Sứ;
thông điệp còn lơ lửng trên cao…
những hình ảnh bấy lâu vùi sâu huyền sử
đã vươn lên từ ngôn ngữ ca dao,
từ thần thoại, gốc tâm hồn Nhân Loại,
theo sát đường bay, vút hướng muôn sao.
hoa SẮT THÉP bị sáu bề vây bủa,
một từ trường dệt mau như tơ tầm sóng lúa,
kìa bóng Cây Đa, kìa nếp Vũ Y,
này Chú Cuội, này con trâu, này bờ ao bãi cỏ,
và cối thuốc Trường Sinh,
trắng phau Ngọc Thỏ;
mộng Thanh bình siết chặt mãi trùng vi.
hạt CHIẾN TRANH gieo?
– Tàn lụi tức thì!

“gieo rắc không tàn lụi,
riêng có HẠT TỪ BI”
đáy Biển Câm bật thành tiếng nói
truyền qua ruột Khối Vô Tri,
gửi về giải núi Oural trùng trùng điệp điệp
gửi cả về con sông dài Mississipi…

ngàn thu bóng nguyệt
chẳng khuyết câu thề,
vẫn tròn như vai thần tượng
đầy như hy vọng gái quê.
đâu đó Tháp Chàm đang huỷ diệt
hay Khải Hoàn Môn đang hôn mê?
sóng THƠ bảy sắc hồng nghê
mỗi đêm trăng tỏ rung về trần gian.

Biển câm nổi sóng

tặng Luna 9

tuổi thế kỷ SÁU MƯƠI vừa lẻ SÁU
lịch mặt trời ghi: tuyết rã băng tan.
lắng trên giòng Thời Gian:
mùa Bảo Bình nghiêng đổ
vách đêm sâu, con đường Sữa đăm chiêu…
cũng là đêm đầu tiên
mùa xuân Á Châu mừng gương nguyệt tròn
theo lịch của người đời thượng cổ
lấy Mặt Trăng làm điểm tựa chon von;
như đã lấy Nông làm Thần
trỏ các ngôi sao đặt tên: Cái Sàng, Cái Đấu,
nghe tiếng nổ tinh vân
thành nhạc lúa vang ròn.

phải rồi, đêm nay là NGUYÊN TIÊU
của Hương Cảng, Đông Kinh,
Vọng Các, Sài Gòn.
mặc dầu trăng xế ngàn dâu
hay đứng trên đầu vằng vặc
hay đang vượt chân trời lấp ló sườn non…

lưng chừng canh khuya TRÁI HỢP KIM
ghé bến vòng sao du mục.
từ lúc ra đi hướng nổi phương chìm
đã mấy thời gian đằng đẵng;
nay mới được buông xuôi đường thẳng
ngược lẽ “Hoá sinh” tự bóc mình ra
để phút chốc mang hình một đoá hoa,
giữa khoảng chân không xoè bốn cánh
rơi xuống NGUYỆT CẦU
chẳng khác trùng dương hạ cánh âu…

nơi ngày xưa thi bá Nguyễn Tiên Điền
với Cao Chu Thần, Lão Đổ, Trích Tiên
vẫn gọi là “Cung Quảng”
vừa thoáng rung khuôn mặt đá mềm.
khí quyển bao quanh vô cùng nhẹ loãng
sao có được âm thanh?
chỉ thấy điện ba dài ngắn tung hoành.

ôi, TRÁI kết thành HOA
ắt nở HOA thành NỤ
và NỤ chuyển thân về HẠT nguyên trinh!
Nguyệt Cầu muôn thủa vệ tinh
của Trái Đất, chưa một lần hội kiến;
khuya nay khối hợp kim này đại diện
tới gieo mầm tương cảm đó chăng?
sứ giả kia ơi, còn rung động nào bằng?

Nhưng KHỐI HỢP KIM chẳng là Địa Sứ;
thông điệp còn lơ lửng trên cao…
những hình ảnh bấy lâu vùi sâu huyền sử
đã vươn lên từ ngôn ngữ ca dao,
từ thần thoại, gốc tâm hồn Nhân Loại,
theo sát đường bay, vút hướng muôn sao.
hoa SẮT THÉP bị sáu bề vây bủa,
một từ trường dệt mau như tơ tầm sóng lúa,
kìa bóng Cây Đa, kìa nếp Vũ Y,
này Chú Cuội, này con trâu, này bờ ao bãi cỏ,
và cối thuốc Trường Sinh,
trắng phau Ngọc Thỏ;
mộng Thanh bình siết chặt mãi trùng vi.
hạt CHIẾN TRANH gieo?
– Tàn lụi tức thì!

“gieo rắc không tàn lụi,
riêng có HẠT TỪ BI”
đáy Biển Câm bật thành tiếng nói
truyền qua ruột Khối Vô Tri,
gửi về giải núi Oural trùng trùng điệp điệp
gửi cả về con sông dài Mississipi…

ngàn thu bóng nguyệt
chẳng khuyết câu thề,
vẫn tròn như vai thần tượng
đầy như hy vọng gái quê.
đâu đó Tháp Chàm đang huỷ diệt
hay Khải Hoàn Môn đang hôn mê?
sóng THƠ bảy sắc hồng nghê
mỗi đêm trăng tỏ rung về trần gian.

Đâu là chân sắc

muôn thủa Không Gian đã tự dành
lấy một màu XANH.
mặc dầu cũng chia đi
cả trăm ngàn sắc điệu
từ Xanh phới bích ti
đến Xanh rờn lục liễu
và Xanh lam mặt biển sườn non.
màu da Nhân Loại chỉ còn
Đỏ, Trắng, Vàng, Đen,
bốn cửa lên trời của tháp Babel
hay bốn con đường thẳng tắp
chưa đủ sức tìm ra điểm gặp
qua mớ bòng bong ngôn ngữ trần gian?
thịt xương thế kỷ Điêu-tàn
vẫn gói ghém bằng muôn thắc mắc.
có thật ĐỎ cùng XANH là hai Đối Sắc?
nên giống người da Đỏ với trời Xanh
một thủa gác chân nhau tương đắc
cùng say sưa nếm chung làn khói đặc
giơ cao chiếc điếu Hoà Bình
giữa khu rừng gái trinh.
nhưng họng núi đêm nào xưa lưu huyết…
màu Hồng Ngọc còn than van bất tuyệt:
Colorado… Colorado…
tiếng bi thương vọng khắp mảnh dư đồ.

hay màu TRẮNG mới là Tổng Sắc?
như Bạch Hải, Bạch Sơn,
tuyết in mây vằng vặc.
màu chứa bên trong đủ mọi màu
cả ngoại hồng, cực tím cũng gồm thâu.
ánh sáng Trắng hiện nguyên hình mỹ nữ
cung ngà điện ngọc rèm châu.
tam lăng kính đã làm nên huyền sử
Đại Tây Dương hai ngả một sân chầu…
ruổi sát khí quanh làn da ưu đãi
người giống Trắng mở đường lên cắm trại,
nắm trong tay chìa khoá Biển Dâu
mà chẳng riêng chi ở mặt Địa Cầu.

nhưng nếu hỏi: Sắc nào là Chính Sắc
ở trung tâm, nơi phân phối hào quang?
thì mấy ngả văn minh trầm mặc
theo khói nguyệt với hương trà gợi nhắc
sẽ rung lên chỉ một tiếng: VÀNG.
giữa khoảnh khắc
đá Trường Sơn bày thế trận
đảo Trường Kỳ tro bụi đi hoang;
Hán Sở hay Tần Tấn?
Trường Thành đo ý Trường Giang.
ôi Sắc Hoả Hoàng!
màu da lửa sống hiên ngang
của Siêu Thoát, của Suy Tư, Nhập Định,
giao thoa những nét gươm đàn
những nét chữ bên đèn say tỉnh.
nếu lại hỏi: Sắc nào trên Tuyệt đính?
hẳn sẽ dồn vang nhịp trống ngũ lôi
như vó ngựa đập liên hồi
thúc sa mạc sầu miên cởi giấc mê truyền kiếp
mắt ngẫu tượng cháy bừng lên thông điệp
bao nhiêu kẻ vong thân từ phút nằm nôi
đều được ánh kim cương mặc khải rồi.
đai Xích Đạo tiếc gì hoa rải sắc
vì chỉ có màu ĐEN là Tuyệt Sắc
mà thôi…
trang giấy còn khoe TRẮNG, khoe VÀNG khoe
ĐỎ nữa sao?
khi đã giòng ĐEN rót mực vào
cũng là rót cả một niềm đau rưng rức.
nổi Tiềm Thức, hay chìm Ý Thức?
vẫn Thiên Thu nhận diện U Buồn.

chợt vỡ tan tành mọi thứ khuôn
từ những tế bào nằm im phăng phắc
nghe thoáng gợn bước chân Di Lặc.
hai mươi lăm thế kỷ nữa rồi đây
trái tim Nhân Loại sa lầy
men kỳ thị máu pha bùn đã sặc…
bao thành kiến với bao nguyên tắc
ào xuống, chen nhau một chuyến đò.
những tiếng kêu loảng xoảng
những dây trói dằng co
tranh nhãn hiệu là Vua hay là Giặc…

chừ mới biết đâu là Phương Bắc
khi địa bàn gẫy vụn dưới cơn giông.
chừ mới biết đâu là Chân Sắc
Khi nấm độc dành cho HOÀNG với HẮC
cũng sắp mang đi cả BẠCH theo HỒNG.
trời XANH vội tới Cửa Không
trút màu da… Cõi Đại đồng mở toang.

Thông qua tập thơ Bút nở hoa đàm, nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã thành công trong việc thể hiện tư tưởng của mình. Đó chính là nhân cách của một người có sự giác ngộ sâu sắc. Để rồi trong thơ ông đã thể hiện một cách sâu sắc điều đó. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật các bài thơ hay bạn nhé!

Xem thêm: Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập Bút nở hoa đàm phần thứ ba (3)