Nhà thơ Trần Tế Xương và tuyển tập những bài thơ hay đặc sắc phần cuối

Trần Tế Xương là một nhà thơ được đánh giá cao trong thi đàn với nhiều tác giả nổi tiếng. Đa phần các bài thơ của ông đều là các sáng tác tự do, đa phần đọc cho vợ nghe hay than khóc, sầu đời… Tuy nhiên các sáng tác này lại rất được yêu thích. Hãy cùng đón đọc các bài thơ cuối cùng nằm trong tuyển tập thơ của Trần Tế Xương bạn nhé!

Than Cùng

Khách hỏi nhà ông đến
Nhà ông đã bán rồi.
Vợ lăm le ở vú,
Con tấp tểnh đi bồi.
Ai chói voi bỏ rọ ?
Đời nào lợn cạo ngôi ?
Người bảo ông cùng mãi
Ông cùng thế này thôi!

Than Nghèo

Cái khó theo nhau mãi thế thôi
Có ai, hay chỉ một mình tôi?
Bạc đâu ra miệng mà mong được?
Tiền chửa vào tay đã hết rồi!
Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi
Biết thân thuở trước đi làm quách
Chẳng ký, không thông, cũng cậu bồi!

Than Nước Lụt Bính Ngọ

Thử xem một tháng mấy lần mưa,
Ruộng hoá ra sông nước trắng bừa (bờ).
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ,
Con thuyền Quí Tị nhớ năm xưa.
Trâu bò buộc cẳng coi buồn nhỉ!
Tôm tép văng mình đã sướng chưa?
Nghe nói miền Nam trời đại hạn,
Sao không san sẻ nước cho vừa?

Than Sự Thi

Cử nhân: cậu ấm Kỉ,
Tú tài: con đô Mĩ.
Thi thế mà cũng thi!
Ới khỉ ơi là khỉ!

Than Thân

Kể đã ba mươi mấy tuổi rồi,
Tôi ngồi tôi nghĩ cái thằng tôi.
Mấy khoa hương thí không đâu cả,
Ba luống vườn hoang bán sạch rồi.
Gạo cứ lệ ăn đong bữa một,
Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.
Bắc thang lên hỏi ông trời nhẽ:
Trêo ghẹo người ta thế nữa thôi?

Than Thân Chưa Đạt

Ta phải trang xong cái nợ ta,
Lẽ đâu chịu nợ mãi ru mà ?
Đường con, bu nó một năm một
Tính tuổi nhà thầy: ba lẻ ba.
Mở mặt quyết cho vua chúa biết,
Đua danh kẻo nữa mẹ cha già!
Năm nay ta học, năm sau đỗ,
Chẳng những Lương Đường có thủ khoa.

Thành Pháo

Tượng tượng, xe xe xé lẻ rồi
Sĩ đen, sĩ đỏ chẳng vào đôi.
Ðố ai biết được quân nào kết?
Mã cũng chui mà tốt cũng chui.

Thái Vô Tích

Trời đất sinh ra chán vạn nghề
Làm thầy, làm thợ, lại làm thuê
Bác này mới thật thái vô tích
Sáng vác ô đi, tối vác về!

Thói Đời

Người bảo ông điên, ông chẳng điên
Ông thương ông tiếc hoá ông phiền
Kẻ yêu người ghét hay gì chữ
Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền
Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch
Được voi tấp tểnh lại đòi tiên
Khi cười khi khóc khi than thở
Muốn bỏ văn chương học võ biền!

Thông Gia Với Quan

Gái goá đem mình tựa cửa quan
Nghĩ rằng quan lớn thế thì sang.
Thương con, toan lấy dây tơ buộc
Kén rể vì tham cái lọng tàn.
Nào có ra chi phường khố lụa
Thôi thì cũng tủi kiếp hồng nhan.
Cậu này ắt hẳn hay nghề sáo
Dây vũ dây văn vụng ngón đàn.

Thú Cô Đầu

Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay
Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày
Năm canh to nhỏ tình dơi chuột
Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây
Êm ái cung đàn chen tiếng hát
La đà kẻ tỉnh dắt người say
Thú vui chơi mãi mà không chán
Vô tận kho trời hết lại vay

Thầy Đồ Dạy Học

Có một cô lái nuôi một thầy đồ
Quần áo rách rưới, ăn uống xô bồ
Cơm hai bữa: cá kho, rau muống;
Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô.
Sao dám khinh mình: “Thầy đâu thầy bậy thầy bạ ?”
Chẳng biết trọng đạo, cô gì: “cô lốc, cô lô!”

Thề Với Người Ăn Xin

Người đói thì ta cũng chẳng no
Cha thằng nào có tiếc không cho!
Họ đày đoạ mãi dân cày cuốc
Ai xét soi cho cảnh học trò!
Mong được cơm no cùng áo ấm
Gặp toàn nắng lửa với mưa gio
Miếng ăn đến miệng là thưa kiện
Lúa rũ chân đê chửa được vò

Thăm Bạn Nghèo

Khách hỏi nhà ông đến
Nhà ông đã bán rồi
Vợ lăm le ở vú
Con tấp tểnh đi bồi
Anh trói voi bỏ rọ
Đời nào lợn cạo ngôi
Người bảo ông cũng mãi
Ông cũng thế này thôi

Thi Cơm Rượu

Kể tuổi nhà min ngoại bốn mươi,
Văn min khấp khểnh, học min lười.
Ba năm một hội thi cơm rượu,
Bốn bể nhiều anh góp nói cười.
Bảng hổ bảng mai nghiêng mất cả
Chợ Rồng, chợ Bến dạo xe chơi
Văn chương chẳng thấy kêu rằng tốt,
Chỉ tốt hai hàng lúa mạ thôi.

Thi Hỏng

Trăm kiếp khổ gì hơn thi hỏng
Hỏng khoa này khất vợ gắng khoa sau
Miệng cười vui, bụng ngậm ngùi đau
Câu khiển hứng ra màu cảm khái
Cũng có lúc ngoảnh đầu toan cãi
Hỏi ông xanh sao lại thế này ư?
Đã sinh ra, chân không què, tai không điếc, mắt không mù
Nợ trần thế trả bù chi mãi mãi
Ừ bĩ, thái, lẽ trời cũng phải
Lạy ông xanh trang trải chóng đi cho
Cuộc công danh nhỏ nhỏ, to to
Trang trắng nợ, kéo một hò lên vận đỏ
Hồi thủ hồng trần nhưng tự đố
Mai tâm hoàng quyển túc khai nham
Mở sách ra tính tính, toan toan
Rút cục lại đã thua ai ngàn với vạn
Thôi chẳng qua mai vi tảo, cúc vi trì, hạnh vi vãn
Cuộc trung niên còn chán cái phong lưu
Rồi cũng cờ, cũng biển, cũng cõng, cùng lọng, cùng hèo
Cũng giương mắt ếch, vểnh tai mèo trong cõi tục
Trong thiên hạ một trăm người, chín mươi chín người mắt đục
Dù ai khen, ai khúc khích mặc thay ai
Ai ơi, cố lấy kẻo hoài

Thi Phúc

Này này Hương thi đỗ khoa nào?
Nhân hậu thay lòng quan thượng Cao!
Người ta thi chữ, ông thi phúc
Dù dở, dù hay, ông cũng vào

Thiếu Nữ Đi Tu

Con gái nhà ai dáng thị thành,
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh ?
Nhạt màu son phấn, say màu đạo,
Mở cánh từ bi, khép cánh tình.
Miệng đọc nam vô quên chín chữ
Tay lần tràng hạt phụ ba sinh
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế,
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh!

Thương Vợ

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!

Tiến Sĩ Giấy

Ông đỗ khoa nào, ở xứ nào
Thế mà hoa, hốt, với trâm, bào ?
Mỗi năm mỗi tết trung thu đến
Tôi vẫn quen ông, chẳng muốn chào.

Vay Sư Không Được

Ông bám ông ăn đứa trọc đầu
Đầu không có tóc, bám vào đâu?
Nghĩ mình nghiện nặng cho nên kiết,
Đành nó ăn chay ý hẳn giàu.
Một vốn bốn lời mong có lãi,
Năm liều bảy lĩnh tưởng nên câu.
Thế mà không được, buồn cười nhỉ!
Không được thì ông lại xuống tàu.

Vì Tiền

Vì chưng chẳng có, hoá thân hèn,
Hổ với anh em, chúng bạn quen.
Thuở trước chơi bời còn quyến luyến,
Bây giờ đi lại dám mon men!
Giàu sang, âu yếm, tình quen thuộc,
Bần tiện, thờ ơ, dạ bạc đen.
Ví khiến trong tay tiền bạc có
Nói dơi nói chuột, chán người khen.

Vợ Chồng Ngâu

Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu,
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền.
Một là duyên, hai thời là nợ,
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra?
Vụng về cũng thể cung nga,
Trăm khôn nghìn khéo chẳng qua mục đồng.
Hay là sợ muộn chồng chăng tá?
Hơi đâu mà kén cá chọn canh!
Lấy ai, ai lấy cũng đành,
Rể trời đâu cả đến anh áo buồm.

Vợ Tế Chồng

Hỡi thương ơi!
Con thơ vợ dại, sống càng thương mà chết lại càng thương;
Cửa vắng nhà thanh, nghĩ cũng khổ mà nói ra cũng khổ.
Cầu trời cầu Phật, nào thiếu cầu đâu;
Tại thuốc tại thầy, hay là tại số.
Nhớ chàng xưa:
Cháu giống con dòng;
Người kim chất cổ.
Tự mười tám trăng màn bảo trẻ, chi hồ giả dã, chữ đủ làm thầy;
Tới bốn ba lều chiếu quan trường, tí ngọ mùi thân, thi sao chưa đỗ.
Trừ ông cử ông tú ông đò chi ngoại, phường ngựa xe điếu tráp ít chơi;
Lấy câu văn câu thơ câu phú làm vui, thú cờ bạc rượu chè chẳng mộ.
Cũng tưởng làm nên quan lớn, toan sự biển cờ cướp lấy, ông Từ ô cũng chốn anh em;
Nào ngờ già dễ văn hay, làm cho thợ tạo chết tươi, ông Tiền hải cũng trong môn hộ.
Tưởng sự cửa nhà;
Thêm tình quyến cố.
Như chú hai đã có em phụng dưỡng, thôi cũng yên lòng;
Nọ thím năm đang lập cửa thừa diên, nhưng chưa xong số.
Mẹ thiếp cũng già đà lẫn cẫn, phố là làng con là rể, ai kẻ trông nom;
Con chàng còn dại dại ngây ngây, thằng mười bốn đứa lên ba, ai vì dạy dỗ.
Gần đã đến mùng năm đoan ngọ, đào đào mận mận, cũng có của ngon vật lạ, chàng đà đi thiếp cũng chán chường;
Xa là tháng tám trung thu, ngựa ngựa voi voi, những là tán giấy đèn cù, cha chẳng ở con nào vui cỗ.
Thương ôi!
Bối rối lòng quê;
Vội vàng tục phố.
Lờ mờ đen tỏ một huê;
Xơ xác quyển vàng vài bộ.
Nghĩ đến họ đến hàng đến làng đến nước, thì trước cửa Diêm vương ngơ ngẩn, chắc chàng chưa ăn cháo tái sinh;
Nghĩ có trai có gái có rể có dâu, thì trên lầu Thị Kính thề nguyền, quyết thiếp chỉ ôm cầm một độ.
Xin giữ đủ ba năm một tiết, tuần tứ cửu ngày bách nhật, khi giỗ đầu lúc giỗ hết, dưới suối vàng ai hỡi xét xoi;
Gọi là một chén tam ngu, lá vàng giấy nén hương thơm, lưng cơm bạc bát canh suông, trên dương thế lấy gì báo bổ.
Hỡi ơi! Thượng hưởng!

Vị Hoàng Hoài Cổ

Nô nức qua chơi thú Vị Hoàng
Nay nơi phong vận đất nhiều quan
Trời kia xui khiến sông nên bãi
Ai khéo xoay ra phố nửa làng
Khua múa trống chiêng chùa vẫn nức
Xì xèo tôm tép chợ hầu tan
Việc làng quan lớn đi đâu cả?
Chỉ thấy dăm ba bác xã bàn

Vịnh Cô Cáy Chợ Rồng

Ai đẹp hơn cô Cáy chợ Rồng
Mình cô thì một, chợ thì đông
Giời còn bể đó, tùy ngang dọc
Người phải cua đâu, chớ hãi hùng
Buôn trứng những toan kề cửa lỗ
Sợ còng chẳng dám động chân lông
Hỡi ai thiên hạ, ra cùng rốc
Yếm trắng như cô phải chọn chồng

Văn Tế Sống Vợ

Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?
Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai
Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ
Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu
Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
Thế mà:
Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở
Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.
Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?
Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?
Thôi thôi
Chết quách yên mồ
Sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay
Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ
Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ
(Nhà thơ chơi bời phòng túng, tốn tiền, bà Tú giận doạ tự tử. Nhà thơ nhân đó làm bài văn tế này đùa nịnh, làm lành khéo với vợ)

Viếng Bạn

Đêm qua trằn trọc không yên
Vắng người cùng bạn bút nghiên sao đành!
Ngựa xe là thói tỉnh thành
Nào người vui thú học hành là ai?
Nhớ khi thảo sách học bài
Tựa trong khóm trúc, dạo ngoài hồ sen
Ngậm ngùi dưới nguyệt trước đèn
Ta vui ai biết, ta phiền ai hay?
Của trời như nước như mây
Lũ ta như dại như ngây như khờ
Đi đâu một bước một chờ
Vắng nhau một khắc một giờ khôn khuây
Tháng năm Tết đến sau này
Cùng ai lên núi hái cây xương bồ?
Há rằng thiếu níp không bồ
Tri âm đã vắng, Bồng Hồ cũng thôi!
Qua năm hương hội đến rồi
Cùng ai vượt bể đến nơi kinh kỳ?
Dẫu cho vui thú Phụng Trì
Khi vui mà vắng cố tri thêm sầu
Bạn đàn chưa dễ tìm nhau
Bạn nghiên bạn bút có đâu được nhiều!

Xuân

Xuân từ trong ấy mới ban ra
Xuân chẳng riêng ai, khắp mọi nhà.
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Loẹt loè trên vách, bức tranh gà.
Chí cha chí chát khua giầy dép
Đen thủi đen thui cũng lượt là.
Dám hỏi những ai nơi cố quận
Rằng xuân xuân mãi thế ru mà ?

Xuân Hứng

Một ngọn đông phong sẽ thổi phào,
Đông quân nhường tỏ lối ra vào.
Tường mai ngõ hạnh tuy như cũ,
Lá bướm cành chim đã thế nào.
Tranh pháo vui xem con trẻ nọ,
Tóc râu thêm sợ tuổi trời cao.
Tìm xuân dễ biết xuân đâu tá,
Hương khói nhà ai cũng ngạt ngào.

Trần Tế Xương được đánh giá là một người thơ, một nhà thơ đã có công rất lớn trong việc công đức trong cuộc xây dựng tiếng nói văn học của dâ tộc Việt Nam. Bởi đó là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn. Đó cũng chính là những biến cố của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cảm nhận những bài thơ hay nhất bạn nhé!