Nhà thơ Tản Đà và phần Thơ, lục bát trường thiên (Tập Khối tình con III 1938)

Tản Đà bên cạnh viết các bài thơ theo phong cách truyền thống, ông còn dành thời gian để viết các bài thơ dài. Hay chính xác hơn là thơ trường thiên. Đó cũng chính là lý do trong tập Khối tình con III có phần Thơ và lục bát trường thiên. Đây là phần thơ được đánh giá rất cao bởi độ sâu sắc và dụng ý mà tác giả Tản Đà muốn chuyển tải. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bài thơ nằm trong phần Thơ và lục bát trường thiên của tập Khối tình con III bạn nhé!

Nói chuyện với bóng

Phòng văn nửa khép cánh thu
Đèn văn một ngọn trông lù dù xanh
Đứng lên, ngồi xuống một mình
Khối tình ai nặn, lửa tình ai khêu
Mập mờ khi thấp, khi cao
Trông ra chẳng biết ông nào lại chơi!
Nhận lâu sau mới bượch cười
Té ra anh Bóng! chớ ai đâu mà
Bóng ơi, mời Bóng vào nhà
Ngọn đèn khêu tỏ, đôi ta cùng ngồi
Cùng nhau rãi một đôi nhời
Ta ngồi ta nói, Bóng ngồi Bóng nghe
– “Cõi đời từ cất tiếng oe
Đã bên ngọn lửa lập loè có nhau
Tương tri thủa ấy về sau
Đôi ta một bước cùng nhau chẳng dời
Ta ngồi khi Bóng cũng ngồi
Ta đi, ta đứng, Bóng thời cũng theo
Có khi lên núi qua đèo
Mình ta với Bóng leo trèo cùng nhau
Có khi quãng vắng đêm thâu
Mình ta với Bóng âu sầu nỗi riêng
Có khi rượu nặng hơi men
Mình ta với Bóng ngả nghiêng canh tàn
Có khi trè đượm mầu lan
Mình ta với Bóng bàn hoàn thú xuân
Có khi bút thảo câu thần
Mình ta với Bóng xoay vần nệm hoa
Đôi khi lôi điện phong ba
Cuộc đời nguy biến có ta, có mình
Hằng khi gió mát giăng thanh
Bầu giời thanh thú riêng mình với ta
Trăm năm cho đến cõi già
Còn ta còn Bóng, còn là có nhau
Trần ai mặc những ai đâu
Ai thương tử biệt, ai sầu sinh ly
Còn ta, Bóng nỡ nào đi
Ta đi, Bóng có ở chi cõi trần
Tin nhau đã vẹn muôn phần
Cũng xin rãi hết xa gần cùng nhau”
Bóng nghe, Bóng cũng gật đầu

Chơi Huế

Lần đầu vào Huế với ông Bùi Huy Tín chủ nhà in Đắc lập
“Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”
Yêu em, anh cứ anh vô!
Kệ chuông nhà Hồ, mặc phá Tam Giang
Xe hơi đã tới đèo Ngang
Ấy qua Hà Tĩnh, đường sang Quảng Bình
Danh sơn gặp khách hữu tình
Đèo Ngang ơi hỡi, là mình với ta
Con cháu chúa, nước non nhà
Không đi không lại nên ra lạ lùng
Dừng xe, lên đỉnh ta trông
Mặt ngoài bể nước, bên trong núi rừng
Nhớ từ hoàng Nguyễn long hưng
Cơ đồ gây dựng cũng rằng từ đây
Giang san từ ấy đến nay
Nào giăng mặt bể, nào mây trên ngàn!
Ải xưa bến cũ còn truyền
Oai linh cảnh thắng, bàn hoàn khách du
Triều xuân êm ả như du
Thuận xe lại cứ dậm cù như bay
Càng vào mãi, càng sinh hay
Càng trông cảnh vật đổi thay lạ nhường
Nhỏ to mả trắng bên đường
Xa xa mé bể cồn vàng thấp cao
Dọc đường dân chúng biết bao
Ruông tình hữu ái như rào trận mưa
Rồng tiên cùng họ từ xưa
Ba mươi năm mới bây giờ gặp nhau
Nhận xem áo vải quần nâu
Gái, giai, già, trẻ, một mầu không hai
Văn minh giầy đã bán khai
Ngợ sao còn hãy như đời Hùng Vương
Giời tây ngả bóng tà dương
Ô tô lại đổi lên đường hoả xa
Ấy từ Quảng Trị, Đông Hà
Đi năm ga nữa vừa là tới kinh
Kinh thành gái lịch giai thanh
Cảnh thêm Hương thuỷ, Ngự Bình điểm tô
Con người xứ Bắc mới vô
Mừng nay được thấy đế đô một lần
Hoàng thành cung điện liên vân
Dinh quan Khâm sứ đóng gần một nơi
Quan dân ở cả thành ngoài
Quanh thành tám cửa sông dài bọc quanh
Lại bao phố xá ngoài thành
Trên cầu xe ngựa, ghe mành dưới sông
Đông Ba, Gia Hội càng đông
Gịp cầu nhẹ bước xa trông càng tình
Giòng sông trắng, lá cây xanh
Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai!
Ngày xuân có lúc đi chơi
Lăng chùa qua biết các nơi quanh gần
Đế kinh đã gội mưa nhuần
Tiện theo đường sắt vô dần xứ trong
Một đi thêm một lạ lùng
Xe chui hầm tối, bể trùng sóng cao
Dưới dường sóng bể nhẩy reo
Như mừng bạn mới, như chào khách xa
Hải Vân đèo nhớn vừa qua
Mưa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè
Tiết giời như đã sang hè
Mà theo phận đất thời về Quảng Nam
Càng đi rộng, càng biết thêm
Tu-ran cảnh đẹp càng xem càng mừng
Nước xuân sóng lục vô chừng
“Lục ba xuân thuỷ” ai từng học chưa?
Vào nhà Tích cổ xem qua
Chiêm Thành này tượng ngày xưa hãy còn!
Biết bao vật nhớn hình con
Trạm rồng cột đá chưa mòn nét dao
Cảnh còn như rước như chào
Tiếc thay! ai mới qua vào đã ra
Đường về cũng thế mà ra
Triều hôm mười tám đến ga Hà thành
Chơi xuân kể lại hành trình
Ngày ba mươi tết hứng tình ra đi
Từ Bất Bạt, qua Việt Trì
Còn năm kỷ vị, còn thì tiết đông
Canh Thân ăn tết Thăng Long
Sang ngày mồng bốn vào trong Trung kỳ
Chơi xuân ta nghĩ cũng kỳ!
Gịp đâu may mắn cũng vì có ai
Cám ơn hai chữ “yêu tài”
Con đường thiên lý còn dài tấc son
Còn giời, còn nước, còn non
Tiền trình vạn lý, anh còn chơi xa!
Chơi cho biết mặt sơn hà
Cho sơn hà biết ai là mặt chơi!

Đêm thu trông giăng

Đêm thu giăng sáng một trời
Một mình ngồi tưởng sự đời nghĩ quanh
Nghĩ cho muôn vật hoá sinh
Ở trong vũ trụ cái hình ra chi!
Giăng kia tròn được mấy khi?
Hoa kia nở được mấy thì, hỡi hoa?
Gái tơ quá lứa đã già!
Con tằm rút ruột thời là rộng non
Khúc sông bồi lấp nên cồn!
Dâu xanh bãi bể, đá mòn nước khe!
Đồng không con đóm lập loè
Khách trần lối ấy đi về những ai
Hình kia đúc tự thợ Giời
Tình kia hoạ mới ra ngoài khuôn xanh
Vọng phu còn đá còn trinh
Tiền Đường còn sóng trung tinh hãy còn
Dẫu cho sông cạn, đá mòn
Trung hồn khôn thác, trinh hồn khôn tan
Cho hay những khách trần hoàn
Nghìn xưa ở lại thế gian mấy mà!
Trông lên một mảnh giăng tà
Soi chung kim bổ biết là những ai
Mà người kim cổ những ai?…

Lo văn ế

(Điệu Ô Thước kiều)
Nhà tớ xưa nay vốn vẫn nghèo
Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu
Quanh năm luống những lo vì ế
Thân thế xem thua chú hát trèo
Hát trèo lắm lúc nghĩ mà ngoan!
Vẽ mặt ra trò với thế gian!
Vợ cưới đêm nay, mai lại cưới
Đêm đêm cưới vợ! lại làm quan!
Làm quan ví có dễ như trèo
Tớ đến năm nay đã chẳng nghèo
Bởi bước công danh trèo cũng khó
Trèo leo chẳng được phải nằm meo
Nằm meo cho tớ nghĩ nên văn
In bán ra đời, cách kiếm ăn
Tiền kiếm, ăn xong nằm lại nghĩ
Con tầm rút ruột lá dâu xanh
Dâu xanh rút giả sợi tơ vàng
Cái ruột con tầm những vẩn vương
Tớ nghĩ thân tầm như tớ nhỉ
Tơ tầm như tớ mối văn chương
Văn chương rút ruột kiếm xu tiêu
Nghề nghiệp làm ăn khó đủ điều
Tốn kém vì văn ai có biết
Cứ tiền giấy mực biết bao nhiêu!
Bao nhiêu củi nước mới thành văn
Được bán văn ra khốn mấy lần
Ông chủ nhà in in đã đắt!
Lại ông hàng sách mấy mươi phân!
Mười phân giá gửi, lấy tiền sau
Bán hết thu tiền! đợi cũng lâu
Lắm lúc túng tiền đem bán rẻ
Trừ đầu, trừ cuối nghĩ càng đau!
Càng đau mà vẫn phải càng theo
Theo mãi cho nên vẫn cứ nghèo
Nghèo cũng bởi chưng văn bán ế
Văn mà ế mãi, hết xu tiêu
Xu tiêu chẳng có, những băn khoăn
Vay ngược vay xuôi thực khó khăn
Công nợ nhà in còn chất đống!
Còn đâu gan ruột nghĩ ra văn!
Ra văn mà bán chẳng ra tiền!
Cái nghiệp văn chương nghĩ thật phiền!
Văn ế bao giờ cho bán đắt?
Chán đời! lắm lúc muốn lên tiên!

Hầu giời

(Điệu Thu thuỷ)
Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! thật phách! thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!
Nguyên lúc canh ba, nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn ngồi dậy, đun nước uống
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn
Chơi văn ngâm chán, lại chơi giăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên giời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
“Giời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà
Làm Giời mất ngủ, Giời đương mắng
Có hay, lên đọc Giời nghe qua”
Ước mãi, bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Giời đã sai gọi thời phải lên
Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay
Cửa son, đỏ trói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!
Vào trông thấy Giời, xụp xuống lạy
Giời sai tiên nữ dắt lôi dậy
Ghế bành như tuyết, vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy
Tiên đồng pha nước, uống vừa xong
Bỗng thấy chư tiên đến thật đông
Chung quay bầy ghế ngồi la liệt
Tiên bà, Tiên cô cùng Tiên ông
Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc
Giời sai pha nước để nhấp giọng
Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
“Dạ bẩm lạy Giời, con xin đọc”
Đọc hết văn vần, sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý, lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Trè giời nhấp giọng càng tốt hơi
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Giời nghe, Giời cũng lấy làm hay
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài, cùng vỗ tay
“Bẩm con không dám man cửa Giời
Những các văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Giời, văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi!”
Văn đã giầu thay, lại lắm lối
Giời nghe Giời cũng bượch buồn cười
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
“Anh gánh lên đây, bán chợ giời”
Giời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít?
Nhời văn truốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây truyển!
Êm như gió thoảng! tinh như sương!
Đầm như mưa sa! lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chửa biết”
“Dạ, bẩm lạy Giời, con xin thưa:
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”
Nghe xong, Giời ngợ một chút lâu
Sai bảo Thiên Tào lấy sổ xét
Thiên Tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông:
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đầy xuống hạ giới vì tội ngông”
Giời rằng: “Không phải là Giời đầy
Giời định sai con một việc nầy
Là việc “thiên lương” của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay”
“Bẩm Giời, cảnh con thật nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Giời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém, tuổi ngày cao
Sức trong non yếu, ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm triều
Giời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có nổi mà dám theo?”
Rằng: “Con không nói, Giời đã biết
Giời dẫu ngồi cao, Giời thấu hết
Thôi, con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!
Cố xong công việc của Trời sai
Trời sẽ cho con về Đế khuyết”
Vâng nhời Giời dạy, lạy xin ra
Trời sai Thiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe giời đã chực ngoài thiên môn
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt
Hai hàng luỵ biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi!
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai
Đêm khuya, khí thanh, sao thưa vắng
Giăng tà đưa lối về non đoài
Non đoài đã tới quê trần giới
Trông lên chư tiên không còn ai
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi
Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Giời!

Thư trách người tình nhân không quen biết

(trước Hữu Thanh – Tản Đà)
Ngồi buồn ta lại viết thư chơi
Viết bức thư này, gửi trách ai
Non nước bấy lâu lòng tưởng nhớ
Mà ai tri kỷ vắng tăm hơi!
Đỉnh non Tản, mây giời man mác
Giải sông Đà, bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình
Nước kia mây nọ như mình với ta
Người đâu tá? quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu? tên họ là chi?
Đã sinh cùng nước cùng thì
Cùng ta không biệt mà ly, hỡi mình!
Kể từ độ thư tình gửi nhắn
Trải bao năm tin nhạn chờ mong
Những là ngày hạ đêm đông
Hồi âm chẳng thấy, như không có mình
Hỏi cùng núi, mây xanh chẳng biết
Hỏi cùng sông, nước biếc không hay
Sông nước chẩy, núi mây bay
Mình ơi! có biết ta đây nhớ mình?
Cuộc trần thế công danh chẳng thiết
Áng phong lưu huê nguyệt đã thừa
Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ
Trông mây, trông nước, nay chờ mai mong
Mong giáp mặt, mặt không giáp mặt
Chơ tin thư, thư mất tin thư
Tháng ngày thấm thoắt thoi đưa
Tuổi ba mươi lại đã dư một vài
Câu tri kỷ cùng ai tri kỷ
Truyện chung tình ai kẻ chung tình
Bụi hồng vắng vẻ mắt xanh
Mình ơi ta nhớ! mà mình quên ta!
Không quen biết cũng là quen biết
Ta nhớ mình, ta viết thư chơi
Thư tình này bức thứ hai
Tiếp thư, xin chóng giả nhời cho nhau

Vợ chồng người đốt than trên núi

Đèn Hà Nội sáng choang lửa điện
Quanh hồ Gươm xe điện cao su
Rừng Ngang sương khói mịt mù
Gió âm, giăng lạnh, cây lù rù đen
Rừng một giải, cây chen vạn gốc
Gốc cây rừng, một nóc nhà gianh
Trong nhà, một ngọn đèn xanh
Dưới đèn mờ vẽ bức tranh ba người
Con thời quấy, vợ thời miệng dỗ
Chồng lui cui đan rỏ đựng than
Đêm khuya con ngủ đèn tàn
Một hai thế sự, muôn vàn tình thâm:
– “Chàng chàng hỡi! tri âm từ thủa
Nỗi sinh nhai dìu búa, bếp lò
Nghĩ mình cũng đấng trượng phu
Tây nho chữ nghĩa không thua chi đời
Đời nào đã mấy ai tài trí
Cũng vinh hoa phú quí như không
Cũng xe bóng, cũng ngựa hồng
Cũng trăm, nghìn, vạn bạc đồng trong tay
Chàng chẳng nghĩ cho tầy người khác
Lối công danh chen bước kịp thì
Làm cho phỉ chí nam nhi
Trước là phu quí, sau thì phụ vinh
Chẳng hơn ở rừng xanh một giải?
Sớm sương non! tối lại giăng ngàn!
Bòng bong đôi mớ củi tàn
Con reo rắt đói, vợ than thở nghèo!”
– “Mình mình hỡi, nghĩ sao mà hẹp!
Kiếp ở đời là kiếp phù sinh
Mây vàng chớp nhoáng bên mình
Sinh sinh hoá hoá cái hình phù du
Xưa nay ngẫm sang giàu cũng lắm
Cuộc trăm năm chơ nắm đất vàng!
Cõi đời nghĩ đã mơ màng
Nỗi đời lắm nỗi nghĩ càng thêm đau!
Mình chẳng thấy kêu sầu mùa hạ?
Con quốc kia ròng rã nắng mưa
Ấy hồn Thục Đế khi xưa
Bởi đâu thương tiếc, hồn chưa hoá hồn?
Lại chẳng thấy kêu buồn con mối?
Tắc lưỡi kêu, khơi nỗi não nùng
Ấy xưa cự phú Thạch Sùng
Bởi đâu thương tiếc, cho lòng còn căm!
Lại lắm kẻ còn lăm phú quí
Lấm đầu lươn luồn luỵ vào ra
Chồng chồng vợ vợ vinh hoa
Mà trong vinh hiển xót xa đã nhiều!
Cũng có kẻ hồn tiêu mũi bể
Ngọn chào tan giọt lệ gia hương
Người thời tội gánh nợ mang
Kẻ thời con bán vợ nhường chia tan
Đời sầu thảm muôn vàn xiết kể!
Cảnh phong lưu ai dễ hơn Thầy
Bụi hồng mặc khách đông tây
Quẩy than đủng đỉnh, tháng ngày tiêu dao
Nhà gianh cỏ leo teo mà mát
Cơm muối dưa xuông nhạt càng thanh
Đôi khi ngọn núi đầu ghềnh
Vui duyên giăng gió, mặn tình cỏ hoa
Khi than đắt, rượu ba bảy hớp
Vợ, chồng, con hoà hợp một đoàn
Thú vui lắm thú thanh nhàn
Khúc ca tiếng hạc, cung đàn gió thông
Sướng đến thế, mà không biết sướng!
Còn than thân mong tưởng như ai
Dại đâu? có dại lạ đời!
Ngu đâu mà lại có người quá ngu!
Người phải biết tự do là thú
Mất tự do, còn có ra chi!
Canh tàn thôi liệu ngủ đi!
Ngủ cho đẫy giấc, mai thì bán than!”

Cảm thu tiễn thu

Điệu Trường đoản ca
Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương
Nào người cố lý tha hương
Cảm thu, ai có tư lường hỡi ai?
Nào những ai
Bảy thước thân nam tử
Bốn bể chí tang bồng
Đường mây chưa bổng cánh hồng
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu my
Nào những ai
Sinh trưởng nơi khuê các
Khuya sớm phận nữ nhi
Song the ngày tháng thoi đi
Vương tơ ngắm rện nhỡ thì thương hoa
Nào những ai
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha
Ruột tầm héo, tóc sương pha
Gốc phần chạnh tưởng quê nhà đòi cơn
Nào những ai
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn
Giầu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!
Nào những ai
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ huê ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông giăng rãi con thuyền chơi vơi
Nào những ai
Dọc ngang giời rộng
Vùng vẫy bể khơi
Đội giời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân
Nào những ai
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Thôi nghĩ cho
Thu tự giời
Cảm tự người
Người đời ai cảm ta không biết
Ta cảm thay ai, viết mấy lời
Thôi thời
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui
Chi để khách đa tình đa cảm
Một mình thay cảm những ai ai!

Thư lại trách người tình nhân không quen biết

(Hàng Lọng)
Ngồi buồn ta lại viết thư chơi
Viết bức thư này lại trách ai
Ai những nhớ ai, ai chẳng nhớ
Để ai luống những nhớ ai hoài
Phố Hàng Lọng tiếng người chưa động
Báo An Nam giấc mộng đương dài
Hoả xa còi hét bên tai
Rật mình chợt tưởng như ai gọi mình
Cho hay vẫn si tình là thói
Nào có đâu ai gọi? mà thưa!
Trông ra non nước mịt mờ
Nghĩ nguồn cơn lại bây giờ nhớ ai
Giải sông cũ đầy vơi cữ nước
Đỉnh non xưa tản mác ngàn mây
Nước mây ngày tháng đổi thay
Non sông ngày cũng một ngày khác xưa
Tình thư gửi đến chưa? chưa đến?
Nước non này ai hỡi, hỡi ai!
Ngư nhàn trông mất tăm hơi
Nước mây man mác cho người sầu thương
Ứa bốn bể đôi hàng luỵ ngọc
Gầy ba đông một vóc xương mai
Ơn nhà nợ nước hai vai
Nước nhà ai để riêng ai nặng nề
Trông mây nước bốn bề lạnh ngắt
Ngắm non sông tám mặt sầu treo
Đường xa, gánh nặng, bóng triều
Cơn giông biển lớn, mái chèo thuyền nan
Nghĩ thân thế mềm gan lắm lúc
Nhìn giang sơn bạc tóc như chơi
Mong ai, mỏi mắt chân giời
Nhớ ai đi, đứng, ăn, ngồi thẩn thơ
Thế mà gửi tình thơ hai bức
Những là mong tiêu tức tám năm
Phải rằng ai hẳn vô tâm
Núi sông mây nước cũng nhầm bấy nay
Người bệnh yếu hơi may lạnh trán
Đêm thu trường tựa án thâu canh
Phố phường rộn rã trần thanh
Ngoài song con sẻ trên cành tiếng kêu
Chuyện non nước còn nhiều chưa hết
Sẵn bút nghiên lại viết cho mình
Thứ ba này bức thư tình
Phục thư chẳng thấy, thời rành không ai!

Hủ nho lo việc đời

(Bờ Hồ)
Đáng nực cười cho bác hủ nho!
Việc đời ai khiến gánh mà lo!
Lo to lo nhỏ lo nào siết
Lo thế mà ai có biết cho
Lo vì công việc báo An Nam
Đã chót đa mang cứ phải làm
Bốn bể phen này không trắng nợ
Tuyết sương âu hẳn bạc đầu thêm
Lo vì tin nước đã lưng sông
Đâu đó đê điều có vững không?
Bốn bể dân tình đương túng đói
Không hay Hà Bá có thương cùng?
Lo vì phong hoá mõi ngày xuy
Thánh giáo không ai kẻ hộ trì
Hằng sản đã không, tâm cũng kém
Sĩ còn chưa trách, trách dân chi
Lo vì xã hội thiếu tiền tiêu
Một kẻ phong lưu, chín kẻ nghèo
Cái nỗi sinh nhai mà khốn khó
Con đường tiến hoá khó mà theo
Lo vì thế cục nát như tương
Cái ruột tầm ai rối vẩn vương
Nhọn chẳng ăn ai, ngòi bút sắt
Cùng ai lo tính lúc đêm trường
Đáng nực cười cho cái sự lo!
Lo quanh lo quẩn chẳng ra trò
Việc đời ai có lo chăng tá?
Ai có lo cùng bác hủ nho?

Trên đây là những bài thơ thuộc phần Thơ và lục bát trường thiên của Tản Đà. Đây là một phần thơ được đánh giá khá hay. Bởi nó thể hiện được tư tưởng, tầm nhìn của nhà thơ cũng như các quan niệm về cuộc sống này. Và đây cũng chính là phần cuối cùng trong tập Khối tình con III xuất sắc của nhà thơ này. Bên cạnh đó sự nghiệp thơ ca của ông còn ghi nhận một khối lượng lớn các bản dịch thơ tác giả khác. Hãy cùng đón đọc thông qua các bài viết tiếp theo bạn nhé!