Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần 3

Có thể nói Tản Đà đã dành cả cuộc đời của mình cho các sáng tác văn chương. Ở trong thơ ông ta cảm nhận được sự mới mẻ, độc đáo và một tư tưởng vô cùng phóng khoáng. Đó cũng chính là một phần lý do tại sao Tản Đà lại được đánh giá cao như vậy. Hơn nữa có thể nhìn thấy được ông đã để lại nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại. Và dưới đây là một số tác phẩm của Tản Đà mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Đừng quên đón đọc nhé!

Đề truyện “Thần tiền”

I
Có nhiều là giầu
Có ít là nghèo
Ai mà không có
Khốn khó trăm chiều
II
Hai cô con gái nhà ai
Mặt hoa da phấn như người đúc nên
Hỏi ra không họ không tên
Đem thân mệnh bạc quanh miền bể Đông
Nợ đời giả mãi không xong
Trăm năm tạc một chữ đồng cùng ai

Đề truyện “Trần ai tri kỷ”

(đề truyện thế gian)
Luân thường đổ nát, phong hoá suy
Tiết nghĩa rẻ rúng, ân tình ly
Vợ chồng kết tóc chưa khăng khít
Nhân tình nhân ngãi còn kể chi
Trần ai tri kỷ ai với ai
Chẳng là bác Cả với chị Hai
Nào ai khuê tú, ai tài tuấn
Lầu xanh gặp gỡ người làng chơi
Nửa gian nhà cỏ ngọn đèn xanh
Mấy dịp cầu cao, một gánh tình
Bể khổ đã qua cơn sóng gió
Giầu sang mây chó kiếp phù sinh
Cái nợ phong lưu giả đã thừa
Qua trải hồng nhan mấy nắng mưa
Hương phai, phấn nhạt duyên càng thắm
Lòng chàng khi cuối, thiếp khi xưa
Tri kỷ xưa nay dễ mấy người?
Trần ai nào đã ai với ai?
Nhắn khách giai nhân với tài tử
Ngồi buồn xem Truyện thế gian chơi

Đêm đông hoài cảm

Trăm năm nghĩ đời người có mấy
Một đêm đông sao thấy dài thay
Lạnh lùng gió thổi sương bay
Chập chờn giấc bướm, canh chầy lại canh
Ngó lên án đèn xanh hiu hắt
Nghe tiếng kim… ký cách giục giờ
Đêm trường nghĩ vẩn lo vơ
Cái lo vô tận bao giờ là xong
Thân nam tử đứng trong trần thế
Cuộc trăm năm có dễ ru mà!
Có đời mà đã có ta
Sao cho thân thế không là cỏ cây
Đời có kẻ đường mây gặp bước
Bước công danh sấn trước trèo cao
Thế gian tỏ mặt anh hào
Muôn nghìn mắt miệng trông vào ngợi khen
Cũng có kẻ tài hơn chữ lợi
Trắng hai tay làm nổi nên giàu
Chẳng khanh tướng, chẳng công hầu
Cũng bao vạn kẻ cúi đầu vào ra
Ấy những hạng vinh hoa phú quý
Làm tài trai đắc chí hơn người
Trăm năm nghĩ cũng nên đời
Trăm năm rồi nữa… biết thời ra sao?
Lại những kẻ chí cao tài thấp
Bước đường đời lấp vấp quanh co
Phong lưu rồi đủ ấm no
Kém ra, lưu lạc giang hồ cũng thân!
Nghĩ qua thử, khách trần bao kẻ
Giật mình cho thân thế trăm năm
Mối đâu bối rối tơ tằm
Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng
Bước lận đận thẹn thùng sông núi
Mớ văn chương tháng lụi năm tàn
Luỵ trần ngày tháng lan man
Nỗi lòng càng nghĩ muôn vàn càng thêm…
Đèn hiu hắt, tiếng kim ký cách
Mõ sang canh giục khách đòi cơn
Mạch sầu canh vắng như tuôn
Nhớ ai nước nước non non bạn tình!

Đêm khuya nhớ bạn bài 1

Nhớ nhà thi sĩ Thù Nguyên, lục sự Bắc Ninh
Nhớ ai như nhớ bác Thù Nguyên
Nhớ bác đêm ngày, bác nhớ quên?
Kia nọ đầu non vừng thỏ xế
Có chăng mặt bể ngọn trào lên
Tháng ngày lắm lúc như thoi én
Thân thế đôi ta tựa chiếc thuyền
Nhớ bác, xem thơ như đối mặt
“Bút tình” như vướng sợi tơ duyên

Đêm khuya nhớ bạn bài 2

Ấy ai như nỗi bác Thù Nguyên
Khoảng mấy năm trời một chữ “duyên”
Chỉ thắm đã se, se lại đứt
Giao loan mong đối, nối chưa liền
Đêm đông đất khách ai là bạn?
Gió thổi còi khuya ngủ chẳng yên
Nghe nói Âu Dương còn chuyện cũ
Mà hay Nguyệt lão nhớ hay quên?

Đêm tối

Ù ù gió thổi bắc, tây, đông
Đêm tối trông ra tối lạ lùng
Tạo vật không tay mà hoá có
Phàm trần có mắt cũng như không
Mơ màng đâu đó bao dân chúng
Tô điểm nào ai với núi sông?
Đánh đuốc đố ai tìm khắp nước
Kiếm đâu cho thấy mặt anh hùng?

Địa đồ rách thứ ba

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi
Buồn chăng? hỡi các chị em ơi!
Nghĩ cho lúc trước thương người vẽ
Ngó lại chung quanh hiếm kẻ bồi
Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó
Non sông ai hỡi đợi chờ ai?
Còn sông còn núi còn ta đó
Có lúc ta bồi chúng bạn coi

Địa đồ rách thứ tư

Có lúc ta bồi chúng bạn coi
Chị em nay hãy tạm tin lời
Dẫu cho tài có cao là thánh
Chưa dễ tay không vá nổi trời
Hồ giấy muốn mua, tiền chẳng sẵn
Non sông đứng ngắm lệ nhường vơi
Việc nhà chung cả ai ai đó
Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?

Đông Dương thời sự diễn ca: Việc rượu ở hội đồng

Ông Vĩnh cùng ông Lễ
Đông Dương kinh tế hội đồng,
Có đem việc rượu hỏi cùng nghị viên.
Thay dân, ông Vĩnh đứng lên,
Xin cho dân được có quyền tự do.
Nếu mà chánh phủ ưng cho,
Thời thay khoản thuế chẳng lo thiệt thòi.
Nếu mà dân biểu ngắt lời,
Mặt dân mừng cũng có người đứng thay.
Rồi ra qua hết năm Tây,
Được xem nghị định cho hay tỏ tường.
Tỏ rằng việc rượu Đông Dương,
Từ nay thôi hết mọi đường khó khăn.
Dân quê yên nghiệp làm ăn,
Chẳng còn uất ức băn khoăn nỗi gì.
Việc đời quả có thê nhi?
Đời chưa đáng chán ta thì cũng vui.
Nhưng mà chưa chắc ai ơi,
Nghe trong hội nghị có lời bàn ngang.
Xem trên các báo cho tường,
Có ông nghị Lễ vốn làng kỹ sư.
Đứng lên ông cũng trần từ,
Muốn cho việc rượu cứ như hiện thời.
Nghị đâu? có nghị lạ đời!
Chẳng qua Nguyễn Lễ là người Fông-ten.
Thế mà dân chúng bầu lên!

Đời lắm việc

Đời người như giấc chiêm bao
Mà trong mộng ảo lại sao không nhàn
Đã sinh ra ở nhân hoàn
Lao tâm lao lực một đoàn khác chi!
Người ông lớn, đứa cu li
Nhọc lòng nhọc xác cũng vì “cái ăn”
Cuộc đời kinh tế khó khăn
Người đời càng phải nhọc nhằn sớm hôm
Những người khố rách áo ôm
Mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng
Người thương mại, kẻ canh nông
Lo tiền, lo thóc, năm cùng lại năm
Ngày ngày hai buổi đi làm
Cụ thừa trong sở, ông tham trên toà
Người khiêu vũ, kẻ xướng ca
Cũng là nghề nghiệp con nhà làm ăn
Người viết báo, kẻ bán văn
Sinh nhai cái bút khó khăn lần hồi
Người đi sông nước ngược xuôi
Kẻ đem kim chỉ ngày ngồi vá may
Kẻ đi đồn thú đông tây
Người khua chuông mõ ăn mày cửa không
Người thuyền thợ, kẻ gánh gồng
Người canh cửi, kẻ bên sông lưới chài
Cùng trong lao động một đời
Kể sao cho xiết hạng người thế gian
Giầu sang chưa dễ ai nhàn
Nghèo hèn ai chớ phàn nàn làm chi
Vui buồn ai cũng có khi
Có hoan lạc, có sầu bi lẽ thường
Trăm năm một giấc mơ màng
Nghĩ chi cho bận gan vàng hỡi ai!

Đưa người nhà quê

Ai ơi đợi với tôi cùng
Tôi còn bối rối trong vòng tơ vương
Bao giờ sạch nợ văn chương
Đèn khuya chung bóng, ta thương lấy mình!

Được tin anh bạn đồng nghiệp “Bắc kỳ thời báo” ra đời

Báo giới ba kỳ buổi cạnh tranh
Tranh nhau bút sắt múa tung hoành
“Bắc kỳ” đồng nghiệp bao nhiêu bạn
“Thời báo” bây giờ lại có anh
Dẫu sẵn mực đen cùng giấy trắng
Nhường sao nước biếc với non xanh
Nam thành tiến thủ cơ quan mới
Tương tế mong ai một khối tình

Gặp xuân

Mưỡu:
Gặp xuân ta giữ xuân chơi
Câu thơ chén rượu là nơi đi về
Hết xuân, cạn chén, xuân về
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!
Nói:
Xuân ơi xuân hỡi!
Vắng xuân lâu ta vẫn đợi, chờ, mong
Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông
Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?
Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt
Kim niên xuân đáo, khách tương phùng
Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác
Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân nay ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi, đời người ta có nửa
Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho, ta chửa hỏi làm chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi
Chỗ quen biết kể gì ai chủ khách
Thiên cổ vị văn song Lý Bạch
Nhất niên hà đắc lưỡng Đông quân
Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần
Thơ với rượu cùng xuân, ta cứ thế
Ngoài trăm tuổi, vắng ta trần thế
Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm!
Cùng nhau nay hãy uống thêm!

Gần tết tiễn năm cũ

Tháng một qua rồi, tháng chạp đến
Năm tàn Bính Tý nay gần tết
Ngoài đường tấp nập chợ đi đông
Quang cảnh trông ra gần lại tết
Ông Công ngựa cá đã lên giời
Hạ giới cùng nhau tết đến nơi!
Kẻ có tha hồ vui vẻ tết
Nhà nghèo tết đến cũng lôi thôi!
Tết nhất từ xưa đã biết bao?
Vui xuân năm ấy giống năm nào
Cỗ bàn, bánh pháo mừng thên tuổi
Một bước đời lên, một bước cao
Gần tết bao nhiêu cảnh khác nhau
Người vui sắm sửa, kẻ lo sầu
Phong lưu thiên hạ nghe chừng ít
Lo tết trần gian chẳng thiếu đâu!
Quanh năm luống những túng cùng lo
Tết nhất thêm ra cũng lắm trò
Lễ nghĩa muốn thôi, thôi chẳng dứt
Nợ nần vay trả khất quanh co!
Độp cái, năm tàn chóng hết thôi
Để chi đeo đuổi bận lòng ai
Còn năm luống những lo không dứt
Lo mãi quanh năm chán cả đời
Gần tết bao nhiêu, rát bấy nhiêu
Cái lo đâu đến đủ trăm chiều
Mong sao chóng hết năm tàn đó
Để mấy ngày chi lẵng đẵng theo!
Tiễn năm ta có mấy vần thơ
Năm hết cho người cũng hết lo
Sắp sửa cành nêu, xuân đón chúa
Thử xem năm mới có ra trò!

Gửi bạn độc giả cũ Nam kỳ

Nhớ ai, ai nhớ ai không
Phải chăng người Mạc-má-hồng năm xưa?
Trải bao đi gió về mưa
Mà duyên tri ngộ bây giờ là đây
Cuộc đời dâu bể đổi thay
Văn chương lại có phen này phụ trương
Bắc Nam xa cách dặm trường
Hồn thơ quanh quất như nhường không xa
Trăm năm chưa đến cõi già
Còn duyên văn tự, còn ta còn mình
Mấy nhời trong lúc đêm thanh
Xa xôi nhắn gửi bạn tình là ai!

Gửi đùa bác Tú Mỡ

Tôi, bác, sao mà, bác Tú ơi,
Cùng tên ta lại cách đôi nơi?
Gió sương non Tản tôi gầy lắm,
Bơ sữa thành Long bác béo hoài!
Cốt có rượu thơ người sống nổi,
Quản chi mây gió cuộc đời trôi.
Thơ này Hiếu gửi đăng “Phong hoá”,
Hiếu có thanh nhàn thử hoạ chơi.

Hà Lạc lý số

Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà!
Nay mai sắp ở Hà
Hà Lạc đoán lý số
Đàn ông và đàn bà
Ai gần xin đến hỏi
Thư gửi, người ở xa
Biên rõ năm cùng tháng
Ngày giờ nào đẻ ta
Một cữ ước tuần lễ
Có thư mời khách qua
Quyển số lấy đã rõ
Xin cứ nói thực thà
Hán văn âm quốc ngữ
Quốc văn bày nghĩa ra
Còn như tiền đặt quẻ
Nhiều năm (5đ) ít có ba (3đ)
Nhiều ít tuỳ ở khách
Hậu bạc kể chi mà!

Hai Bà Trưng

Sáu nhăm thành quách đã tan rồi
Trắc, Nhị đâu mà nẩy một đôi
Cả nước bấy lâu toàn mẹ hĩm
Hai bà chắc hẳn có con bồi
Một đàn em bé theo sau đít
Mấy chú quân Tầu chạy đứt đuôi
Hồn đã lên tiên còn tiếc nước
Ngàn thu sông Cấm bóng giăng soi

Hằng Nga khứ nguyệt

Vẩn vơ nghĩ lại thêm cười
Của đời mà chịu cho đời lấy đi!
Nợ đời chưa trả chi chi
Nợ tình ai gánh thôi thì mặc ai!
Giai nhân nan tất đắc
Tiếp thơ ai chán lắc lại buồn tênh
Thôi, chi mà đàn mà trống mà phách mà sênh
Đập cho nát mảnh tình tung tứ xứ
Khâm Thiên nguyệt ám Hằng Nga khứ
Khách địa thu thâm Phạm Thúc hồn
Khúc tì bà riêng nhớ cuộc truy hoan
Cười bạch phát với hồng nhan thôi có thế
Minh quân lương tướng tao phùng dị
Ai với ai, ai để bập bùng ai
Buồn trông nước chẩy huê trôi

Hoạ lại bài “Tản Đà cốc tử” của ông Hiếu, Tú Mỡ

Nghe ai bỉ báng Tản Đà
Báo chương lên tiếng tỉnh Hà mỉa mai
Ừ! Tớ vẫn học tài Quỉ Cốc
Nhưng chẳng hay nói dóc lấy tiền
Thiên lương chưa bén duyên thiên
Rượu thơ còn vẫn chén tiên câu thần
Cuộc trần thế kiếm ăn chẳng dễ
Rẻ rúng thay là nghệ làm văn!
Thâu đêm hao tổn tinh thần
Đèn xanh chiếc bóng xoay vần từng câu
Nào ai biết gan rầu ruột thắt
Thế mà sao mỏi mắt cùn râu
Nỗi niềm thực thế vì đâu?
Quá thương cất chén gượng sầu, làm vui
Đấng tạo hoá còn nuôi thi sĩ
Các thánh sư phải nghĩ đường xoay
Dẫu rằng lý số không hay
Chu Công, Khổng Tử ứng tay nên tài
Từ thủa nhỏ dùi mài Kinh Dịch
Báo An Nam nghĩa thích đã tường
Việc đời hai chữ “âm dương”
Tiếc thay mất giá tại phường ba hoa
Trời mới bảo Tản Đà tiểu tử
Vạch Kiền Khôn xét thử lại sao?
Trổ tài thần thánh tuyệt cao
Mà cho thiên hạ xem vào phải chăng
Mặc những kẻ tán trăng tán cuội
Xá chi ai lời nói ba hoa
Giang san đương lúc khề khà
Nghe thơ Tú Mỡ đậm đà có duyên
Riêng với bác miễn tiền đặt quẻ
Đoán thật hay bác sẽ ghê lòng
Tuổi già nay tớ không ngông!

Hoạ thơ ông Lương Ngọc Tùng

Bốn bể rong chơi trải tháng ngày
Vàng Danh quen biết mới từ nay
Lửa than rèn đúc câu thơ tặng
Son phấn quây quần cuộc tỉnh say
Nhờ có Bắc Nam cơn gió thổi
Xui nên non nước bước đường may
Biết nhau tuy mới tình như cũ
Ngoại bốn mươi năm chút nghĩa này

Hoài cảm

Đông Pháp văn chương giở cuộc cờ
An Nam tạp chí vẫn người xưa
Đèn xanh đêm quạnh tơ tằm rối
Mây biếc trời cao bóng nhạn thưa
Lúc vắng ngồi suông thêm nhớ bạn
Khi buồn nghĩ mãi chẳng nên thơ
Hà thành giở đến âm thư cũ
Hồn những theo ai luống thẫn thờ

Hộp thư

Năm xưa rau sắng chùa Hương
“Đỡ ai tiền tốn con đường đỡ xa”
Năm nay khách đến chơi nhà
Đoái thăm thi sĩ cho quà gói sâm
Đồng bang cùng bạn đồng tâm
Nước non quanh quất tri âm hãy còn
Trăm năm đá Tản chưa mòn
Còn duyên mưa móc còn hồn văn thơ
Ruột tằm còn cứ ra tơ!

Hơn nhau một chén rượu mời bài 1

Mưỡu:
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm đôi chim nhạn giữa trời mà bay.
Tuyệt mù bể nước non mây,
Bụi hồng trông thắm như ngày chưa xa.
Nói:
Hồi đầu yếm tận nhân gian sự,
Vô dực nan tòng Đế khuyết du.
Kiếp tiền sinh không vụng đường tu,
Thôi chi để nghìn thu gương bạc mệnh.
Thiên mạc giai nhân không hữu ảnh,
Hầu môn khách tử dã vô gia.
Tiếc thay cho điệu Cao sơn, khúc Bạch tuyết, mày dương liễu, mắt thu ba,
Nào đã biết sự tài hoa là thế thế.
Hồng tụ thanh sam quân thị lệ,
Trót đa mang chưa dễ đã ngơ tình.
Đố ai ngoảnh mặt làm thinh.

Hơn nhau một chén rượu mời bài 2

Mưỡu:
Thuyền tình một chén con con,
Khoan khoan tay lái ai còn đợi ai.
Yêu nhau nắm áo lôi mời,
Thương nhau góc bể chân trời quản chi.
Nói:
Thế sự nhất phù vân chi ảnh,
Những ai mê mà ai tỉnh mặc ai ai.
Khéo vô đoan khóc hão lại thương hoài,
Thú trần giãi có ăn chơi là bực nhất.
Trượng phu hà dụng phong hầu ấn,
Tài tử nguyên phi nịch thế thần.
Ừ thế thì, khi trăng trong, khi gió mát, lúc hoa xuân,
Chi sự nghiệp để tình quân ngao ngán dạ.
Quân bất kiến thiên cổ hầu vương, Truỵ lệ tàn bi an tại dã,
Thôi sử kinh yên mã cũng đều sai.
Hơn nhau một chén rượu mời.

Không đề (I)

Bạc đánh còn tiền thua cóc sợ
Đời chưa đáng chán chị em ơi!
Trân trọng cùng ai trong nữ giới
Sơn hà ai có ghé bên vai

Không đề (II)

Con trâu chưa dậy, mục còn chơi
Luống để cho ai những ngậm ngùi
Thằng mục đã về trâu đã dậy
Đời chưa đáng chán, chị em ơi!

Trên đây là một số bài thơ hay của nhà thơ Tản Đà. Với các bài thơ này ta đều có thể cảm nhận được nhiều vấn đề. Đó là các sự kiện gắn liền với cuộc sống và những trải nghiệm của nhà thơ. Thêm vào đó ta cũng hiểu thêm một điều rằng ở con người tài hoa này không chỉ là các sáng tác văn chương đơn thuần mà còn chứa đựng trong đó là các tư tưởng, quan niệm và cách nhìn nhận về thế giới. Đó là cách nhìn của một con người ở thế hệ cũ.
Xem thêm: Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần 4