Nhà thơ Hồ Chí Minh và Tập thơ tiếng Việt nổi tiếng Phần 2

Ở các bài thơ Hồ Chí Minh tiếng Việt ta cảm nhận được sự gần gũi, chân thật. Đó cũng chính là con người của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tuy nhiên qua các bài thơ này ta lại có thêm một góc nhìn, đó là với tư cách của một nhà thơ., thay vì là một nhà hoạt động cách mạng. Tuy nhiên điều này cũng không tách rời hoàn toàn bởi Hồ Chí Minh cũng đã sử dụng thơ như là một vũ khí chiến đấu của mình. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu các bài thơ hay của nhà thơ này nhé!

Được tin thắng lợi cả hai miền

Xa nhà nhớ bạn lắm ai ơi
Thắng lợi miền Nam đỏ góc trời
Miều Bắc quân dân đều đánh giỏi
Tàu Mỹ hai nghìn bị bắn rơi.

Đường số 5 anh dũng

Đường số 5 hơn trăm đồn bốt
Dân đường 5 có một lòng son
Dù cho sông cạn đá mòn
Quyết tâm gìn giữ nước non Lạc Hồng

Gửi Bộ chính trị

Thời giờ đi chóng tựa đưa thoi,
Thấm thoắt xa nhà một tháng rồi.
Nghìn dặm vui nghe tin thắng lợi,
Một mình nằm tính việc xa xôi.

Gửi các cháu miền Nam

Bắc Nam sẽ sum họp một nhà,
Bác cháu ta gặp mặt; trẻ già vui chung.
Nhớ thương các cháu vô cùng,
Mong sao mỗi cháu là một anh hùng thiếu nhi.

Gửi đồng chí Trần Canh

Khi xưa gặp chú một thanh niên,
Nay chú cầm quân giữ soái quyền.
Trăm vạn hùng binh theo lệnh chú,
Giữ gìn cách mạng cõi Điền biên.

Gửi nông dân

Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí
Nhà nông là chiến sĩ
Hậu phương thi đua với tiền phương.

Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết

Hãy yêu thương nhau, cùng nhau ta đoàn kết
Hãy lắng nghe câu hát từ đáy lòng tôi.
Kẻ không đoàn kết cũng như chim lạc đàn
Chóng hoặc chày rồi sẽ trúng tên
Vì đơn độc sẽ làm mồi cho hiểm hoạ
Từ kết đoàn hạnh phúc sẽ sinh sôi.
Chúng ta phải làm sao đoàn kết?
Hãy liên kết như thể thân mình
Ngũ quan cùng với tay chân dính liền
Tách rời nhau thời không thể sống
Chỉ cùng với nhau sức lực mới sinh sôi
Nào ta hãy cùng yêu thương đoàn kết
Chớ ham lợi Pháp mà phản bội sự nghiệp
Hãy đoàn kết tương trợ lẫn nhau
Tựa tứ chi kết lại ta sẽ thành công
Đất nước ta, ta xây một thiên đường
Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết
Nghĩa vụ một người dân là phải yêu Tổ quốc
Mau cải thiện tâm, tài, lực cho dân
Vì sự nghiệp chung hãy cho học sống và học chết
Hỡi đồng bào yêu quý hãy lắng nghe tôi hát
Rồi học thương yêu nhau đoàn kết cùng nhau.

Hoa nghênh thanh niên học quân sự

Nước ta mất đã lâu rồi,
Đồng bào cực khổ, suốt đời gian nan!
Suốt đời chịu kiếp lầm than,
Sưu cao thuế nặng, cơ hàn xót xa!
Vì ai tan cửa nát nhà,
Chồng lìa vợ, con lìa cha tơi bời?
Vì ai non nước rã rời
Giống nòi sỉ nhục chơi vơi thế này?
Vì giặc Nhật, vì giặc Tây!
Thanh niên ta phải thế này gay go
Học hành không được tự do
Học mà mù tối, học cho ngu hèn
Mấy năm cặm cụi sách đèn
Học rồi cũng bỏ, tốn tiền như không
Muốn làm cũng chẳng có công
Ông tham “san rát”, thầy thông “bú đù”
Những người không muốn si ngu
Người giam Hà Nội, kẻ tù Sơn La!
Nước Nam là nước Nam ta,
Vì ai đến nỗi xót xa thế này?

Muốn đánh Nhật, muốn đánh Tây,
Thanh niên ta phải ra đây học hành.
Một là học việc nhà binh.
Hai là học biết tình hình người ta.
Thanh niên là chủ nước nhà
Phải cho oanh liệt mới là thanh niên.
Gan phải to, chí phải bền
Không sợ khổ, không sợ phiền mới nên
Anh em đoàn kết vững bền
Phải nghiêm kỷ luật, phải chuyên tập tành
Đối đoàn thể, phải trung thành
Phải dũng cảm, phải hy sinh mới là
Ở trong, phải rất thuận hoà
Ra ngoài, phải nhớ mình là người Nam
Phải siêng học, phải siêng làm,
Chớ cam thua bạn, không cam kém người.
Người siêng một, mình siêng mười,
Đừng cho thiên hạ chê cười thanh niên.
Mai sau học nghiệp vẹn tuyền,
Đánh Tây đuổi Nhật, giành quyền tự do.
Sự nghiệp này là rất to,
Thanh niên ta phải gắng lo, mới thành!
Việt Nam độc lập đồng minh,
Mấy lời thành thực hoan nghênh học trò!

Hoạ thơ Nguyễn Hải Thần

Ông biết phần ông, tôi biết tôi,
Quyết giành thắng lợi, chẳng chia đôi.
Ðã sinh đầu óc, sinh tai mắt,
Nỡ bỏ ông cha, bỏ giống nòi.
Họ trót sa chân vào miệng cọp,
Tôi đành ghé đít cưỡi đầu voi.
Cờ tàn mới biết tay cao thấp,
Há phải như ai cá đớp mồi.

Hòn đá to

Hòn đá to,
Hòn đá nặng,
Chỉ một người,
Nhắc không đặng.
Hòn đá nặng,
Hòn đá bền,
Chỉ ít người,
Nhắc không lên.
Hòn đá to,
Hòn đá nặng,
Nhiều người nhắc,
Nhắc lên đặng.
Biết đồng sức,
Biết đồng lòng,
Việc gì khó,
Làm cũng xong.
Đánh Nhật, Pháp,
Giành tự do,
Là việc khó,
Là việc to.
Nếu chúng ta
Biết đồng lòng
Thì việc đó
Quyết thành công.

Hữu nghị Việt – Lào

Thương nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt – Lào hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long.

Kinh nghiệm du kích Pháp

Pháp gian cũng như Việt gian,
Cũng đồ bán nước, cũng quân hại nòi.
[…] Anh hùng từ thuở thiếu niên,
Đã hăng hái lại thêm kiên quyết lòng.
[…] Cứu Tổ quốc, cứu đồng bào,
Nhờ nơi chiến sĩ, nhờ vào toàn dân.
[…] Công việc sát địch trừ gian,
Có chút mưu mẹo, chút gan là thành.
[…] Không súng thì lấy ở đâu?
Lấy súng của địch, đánh đầu địch nhân.
[…] Các chiến sĩ và nhân dân,
Như cá với nước phải gần gụi nhau.
[…] Công nhân xe lửa anh hùng,
Ra tay phá hoại, địch càng phải kinh.
[…] Bất kỳ sớm, tối, gần, xa,
Canh gác cẩn thận thì ta an toàn.
[…] Quốc dân đồng lực đồng tâm,
Kháng chiến thắng lợi chắc cầm trong tay.
[…] Khi dân đã đứng cả lên,
Thì sức tranh đấu đã bền lại to.
[…] Phụ nữ cũng là công dân,
Trong cuộc kháng chiến gánh phần vẻ vang.
[…] Lửa khởi nghĩa đã nổ bùng,
Bao nhiêu lực lượng vào chung một đường.
[…] Nhờ lực lượng của toàn dân,
Thì đều thắng lợi mười phân vẹn mười.

Lịch sử nước ta

Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.
Hồng Bàng là tổ nước ta.
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.
Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chưa đến chín mười,
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương,
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.
Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.
Nước Tàu cậy thế đông người,
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam.
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam,
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Hai Bà Trưng có đại tài,
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,
Ra tay khôi phục giang san,
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.
Tỉnh Thanh Hoá có một bà,
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,
Tài năng dũng cảm hơn người,
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.
Phụ nữ ta chẳng tầm thường,
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời,
Kể gần sáu trăm năm giời,
Ta không đoàn kết bị người tính thôn.
Anh hùng thay ông Lý Bôn,
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người,
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.
Lập nên Triều Lý sáu mươi năm liền.
Vì Lý Phật Tử ngu hèn,
Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.
Thương dân cực khổ xót xa,
Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,
Vì dân đoàn kết chưa sâu,
Cho nên thất bại trước sau mấy lần.
Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
Đến hồi Thập nhị sứ quân,
Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.
Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.
Ra tài kiến thiết kinh dinh,
Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.
Lê Đại Hành nối lên ngôi.
Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.
Vì con bạo ngược hoành hành,
Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.
Công Uẩn là kẻ phi thường,
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hoá nước nhà,
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.
Lý Thường Kiệt là hiền thần,
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh,
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Họ Lý truyền được chín đời,
Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.
Nhà Trần thống trị giang san,
Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,
Tung hoành chiếm nửa Âu châu,
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,
Lăm le muốn chiếm nước ta,
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,
Hải quân theo bể kéo đi,
Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nen.
Dân ta nào có chịu hèn,
Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang,
Mênh mông một giải Bạch Đằng,
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,
Hai lần đại phá Nguyên binh,
Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.
Đời Trần văn giỏi võ nhiều,
Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.
Mười hai đời được hiển vinh,
Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.
Cha con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.
Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười năm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.
Vì dân hăng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tông,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.
Trăm năm truyền đến cung hoàng,
Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê nam, Mạc bắc rạch đôi san hà,
Bảy mươi năm nạn can qua.
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.
Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu.
Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.
Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,
Đóng đô ở đất Quy Nhơn,
Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu dân đảo huyền.
Nhà Lê cũng bị mất quyền,
Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.
Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.
Tướng Tây Sơn có một bà,
Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,
Tay bà thống đốc ba quân,
Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.
Gia Long lại dấy can qua,
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.
Từ năm Tân Hợi trở đi,
Tây đà gây chuyện thị phi với mình.
Vậy mà vua chúa triều đình,
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.
Nay ta nước mất nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.
Năm Tự Đức thập nhất niên,
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Nước ta nhiều kẻ tôi trung,
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.
Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,
Cùng thành còn mất làm gương để đời.
Nước ta bị Pháp cướp rồi,
Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;
Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng
Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.
Mấy năm ra sức Cần Vương,
Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,
Giang san độc lập một miền,
Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.
Anh em khố đỏ, khố xanh,
Mưu khởi nghĩa tại Hà thành năm xưa,
Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,
Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.
Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.
Nam Kỳ im lặng đã lâu,
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.
Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!
Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.
Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh bắc dẹp đông,
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.
Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,
Vì ta chỉ biết lo yên một mình.
Để người đè nén, xem khinh,
Để người bóc lột ra tình tôi ngươi!
Bây giờ Pháp mất nước rồi,
Không đủ sức, không đủ người trị ta.
Giặc Nhật Bản thì mới qua,
Cái nền thống trị chưa ra mối mành.
Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,
Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.
Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Người chúng ít, người mình đông
Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.
Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.
Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức, kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!
Những năm quan trọng:
Trước Tây lịch
-2879 – Hồng Bàng
-111 – Tàu lấy nước ra lần đầu
Sau Tây lịch
40 – Hai Bà Trưng đánh Tàu
248 – Bà Triệu ẩu khởi nghĩa
544 – Vua Lý đánh Tàu
603 – Tàu lấy nước ta
939 – Vua Ngô khởi nghĩa
968 – Đời vua Đinh (12 năm)
981 – Đời vua Tiền Lê (29 năm)
1010 – Đời vua Hậu Lý (215 năm)
1073 – Lý Thường Kiệt đánh Tàu
1225 – Đời vua Trần (175 năm)
1283 – Trần Hưng Đạo đánh Tàu
1407 – Tàu lấy nước ta
1427 – Vua Lê khởi nghĩa
1543 – Đời vua Hậu Lê (360 năm)
1545 – Vua Lê Chúa Trịnh
1771 – Đời vua Tây Sơn (24 năm)
1789 – Vua Nguyễn Huệ đánh Tàu
1794 – Gia Long thông với Tây
1847 – Tây bắt đầu đánh nước ta
1862 – Vua nhà Nguyễn bắt đầu hàng Tây
1889 – Ông Đề Thám khởi nghĩa
1893 – Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa
1916 – Trung Kỳ khởi nghĩa
1917 – Thái Nguyên, Sầm Nưa khởi nghĩa
1930 – Yên Bái, Nghệ An khởi nghĩa
1940 – Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa
1941 – Nam Kỳ khởi nghĩa
1945 – Việt Nam độc lập

Trên đây là những bài thơ tiếp theo của  trong chùm thơ Hồ Chí Minh mà chúng tôi muống giới thiệu với bạn. Qua đó ta cảm nhận được một hồn thơ sâu sắc. Tuy được viết với một phong cách giản dị nhưng cũng không kém phần sâu sắc. Qua đó ta có thể cảm nhận được những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm thông qua các tác phẩm của mình. Hãy cùng đọc và tìm hiểu cũng như đừng quên theo dõi phần tiếp theo của chùm thơ tiếng việt nổi tiếng bạn nhé!
Xem thêm: Nhà thơ Hồ Chí Minh và Tập thơ tiếng Việt nổi tiếng Phần 3