Nhà thơ Hồ Chí Minh và Tập thơ Nhật ký trong tù Phần 3

Với tập thơNhật ký trong tù nhà thơ Hồ Chí Minh đã thể hiện được tư tưởng, nhân cách cũng như khả năng sáng tác văn chương của người. Đó cũng chính là lý do người được yêu mến không chỉ với tư cách là một người chiến sĩ cách mạng mà còn là một nhà thơ. Tập thơ này viết dễ hiểu, giản dị và gần gũi. Cái tinh anh ở đây chính là người được đào tạo trong lò hun đúc của Lenin mà vẫn mang những nét tinh anh của Nguyễn Trãi… Đó là cái hay của người, cùng đón đọc tập thơ xuất sắc này của Hồ Chí Minh bạn nhé!

Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo

替難友們寫報告
同舟共濟義難辭,
替友編修報告書。
奉此等因今始學,
多多博得感恩詞。
Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo
Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ,
Thế hữu biên tu báo cáo thư.
“Phụng thử”, “đẳng nhân” kim thuỷ học,
Đa đa bác đắc cảm ân từ.
Dịch nghĩa
Cùng hội cùng thuyền giúp nhau, lẽ khôn từ chối,
Viết báo cáo thay cho bạn;
Những chữ “thừa lệnh”, “chiểu theo” nay đều mới học,
Thế mà đã được nhiều lời cảm tạ.

Lại sang

癩瘡
滿身紅綠如穿錦,
成日撈搔似鼓琴。
川錦囚中都貴客,
鼓琴難友盡知音。
Lại sang
Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm,
Thành nhật lao tao tự cổ cầm;
Xuyên cẩm, tù trung đô quý khách,
Cổ cầm, nạn hữu tận tri âm.
Dịch nghĩa
Xanh đỏ đầy người như áo gấm,
Suốt ngày sột soạt tựa gảy đàn;
Mặc gấm trong tù đều là khách quý,
Gảy đàn, bạn tù đều là tri âm.

Văn thung mễ thanh

聞舂米聲
米被舂時很痛苦,
既舂之後白如綿。
人生在世也這樣,
困難是你玉成天。
Văn thung mễ thanh
Mễ bị thung thì, hẩn thống khổ,
Ký thung chi hậu, bạch như miên;
Nhân sinh tại thế dã giá dạng,
Khốn nạn thị nhĩ ngọc thành thiên.
Dịch nghĩa
Gạo lúc đang giã, rất đau đớn,
Lúc giã xong rồi, trắng tựa bông;
Người sống trên đời cũng như vậy,
Gian nan là dịp rèn giũa mình thành ngọc.

Song thập nhất

雙十一
從前每到雙十一,
紀念歐洲罷戰期。
今日五洲同血戰,
罪魁就是惡NA-ZI。
中華抗戰將六載,
烈烈轟轟舉世知。
勝利雖然有把握,
仍須努力反攻時。
抗日旌旗滿亞洲,
旌旗大小有差殊。
旌旗大的固須有,
小的旌旗不可無。
Song thập nhất
Tòng tiền mỗi đáo Song thập nhất,
Kỷ niệm Âu châu bãi chiến kỳ;
Kim nhật ngũ châu đồng huyết chiến,
Tội khôi tựu thị ác Nazi.
Trung Hoa kháng chiến tương lục tải,
Liệt liệt oanh oanh cử thế tri;
Thắng lợi tuy nhiên hữu bả ác,
Nhưng tu nỗ lực phản công thì.
Kháng Nhật tinh kỳ mãn Á châu,
Tinh kỳ đại tiểu hữu sai thù;
Tinh kỳ đại đích cố tu hữu,
Tiểu đích tinh kỳ bất khả vô.
Dịch nghĩa
Trước kia, cứ đến 11 tháng 11,
Là kỷ niệm ngày đình chiến ở châu Âu;
Ngày nay năm châu cùng huyết chiến,
Tội phạm đầu sỏ chính là bọn là Nazi hung ác.
Trung Hoa kháng chiến đã gần sáu năm,
Oanh liệt vang lừng, khắp nơi đều biết;
Thắng lợi tuy rằng đã nắm chắc,
Nhưng vẫn phải gắng sức lúc phản công
Cờ kháng Nhật dậy khắp châu á,
Cờ lớn, cờ nhỏ có khác nhau;
Cờ lớn cố nhiên phải có,
Nhưng cờ nhỏ cũng không thể không có

Cảnh báo (Thập nhất nguyệt thập nhị nhật)

警報(十一月十二日)
敵机浩蕩到天中,
避襲人民跑一空。
我們出籠避空襲,
人人歡喜得出籠。
Cảnh báo (Thập nhất nguyệt thập nhị nhật)
Địch cơ hạo đãng đáo thiên trung,
Tỵ tập nhân dân bào nhất không;
Ngã mẫn xuất lung tỵ không tập,
Nhân nhân hoan hỉ đắc xuất lung.
Dịch nghĩa
Trên trời máy bay địch rầm rộ kéo tới,
Tránh oanh tạc, nhân dân bỏ chạy hết sạch;
Chúng tôi cũng ra khỏi lao để tránh máy bay,
Ai nấy mừng rỡ được ra ngoài lao.

Chiết tự

折字
囚人出去或為國,
患過頭時始見忠。
人有憂愁優點大,
籠開竹閂出真龍。
Chiết tự
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thủy kiến trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long.
Dịch nghĩa
Người tù ra khỏi ngục, có khi dựng nên đất nước,
Qua cơn hoạn nạn mới rõ người trung;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở then cửa trúc, rồng thật sẽ bay ra.

Lữ quán

旅館
照例初來諸難友,
必須睡在廁坑邊。
假如你想好好睡,
你要多花几塊錢。
Lữ quán
Chiếu lệ sơ lai chư nạn hữu
Tất tu thụy tại xí khanh biên;
Giả như nhĩ tưởng hảo hảo thụy,
Nhĩ yếu đa hoa kỷ khối tiền.
Dịch nghĩa
Theo lệ, các bạn tù mới đến,
Ắt phải ngủ cạnh hố xí;
Nếu anh muốn được ngủ ngon giấc,
Anh phải tốn thêm mấy đồng bạc.

Tảo tình

早晴
朝陽穿過籠全部,
燒盡幽煙與暗霾。
生氣頓時充宇宙,
犯人個個笑顏開。
Tảo tình
Triêu dương xuyên quá lung toàn bộ,
Thiêu tận u yên dữ ám mai;
Sinh khí đốn thì sung vũ trụ,
Phạm nhân cá cá tiếu nhan khai.
Dịch nghĩa
Nắng sớm xuyên suốt nhà lao,
Thiêu đốt sạch những làn khói mù u ám còn sót lại;
Sinh khí bỗng chốc tràn đầy vũ trụ,
Tù phạm ai nấy vẻ mặt tươi cười.

Việt hữu tao động (Ung báo, Xích đạo tấn 14-11)

越有騷動(邕報赤道訊十一月十二日)
寧死不甘奴隸苦,
義旗到處又飄揚。
可憐余做囚中客,
未得躬親上戰場。
Việt hữu tao động (Ung báo, Xích đạo tấn 14-11)
Ninh tử, bất cam nô lệ khổ,
Nghĩa kỳ đáo xứ hựu phiêu dương;
Khả liên dư tố tù trung khách,
Vị đắc cung thân thướng chiến trường.
Dịch nghĩa
Thà chết, không chịu nỗi khổ làm nô lệ,
Cờ nghĩa lại tung bay khắp nơi;
Xót mình vẫn là khách trong tù,
Chưa được đích thân ra nơi chiến trường.

Anh phóng Hoa đoàn

英訪華團
美團去了英團到,
到處欣逢熱烈情。
我也訪華團一部,
卻遭特種的歡迎。
Anh phóng Hoa đoàn
Mỹ đoàn khứ liễu Anh đoàn đáo,
Đáo xứ hân phùng nhiệt liệt tình;
Ngã dã “phỏng Hoa đoàn” nhất bộ,
Khước tao đặc chủng đích hoan nghênh.
Dịch nghĩa
Đoàn Mỹ đi khỏi, đoàn Anh tới,
Đến đâu cũng được tiếp đón nhiệt tình;
Ta cũng là một “Đoàn thăm Trung Hoa”,
Lại gặp một kiểu hoan nghênh đặc biệt.

Giải vãng Vũ Minh

解往武鳴
既解到南寧,
又解返武鳴。
鸞鸞曲曲解,
徒延我行程。
不平!
Giải vãng Vũ Minh
Ký giải đáo Nam Ninh,
Hựu giải phản Vũ Minh;
Loan loan, khúc khúc giải,
Đồ diên ngã hành trình.
Bất bình!
Dịch nghĩa
Đã giải đến Nam Ninh,
Lại giải về Vũ Minh;
Giải đi quanh quanh quẹo quẹo mãi,
Kéo dài cuộc hành trình của ta.
Bất bình!

Bào Hương cẩu nhục

芭鄉狗肉
過果德時吃鮮魚,
過芭鄉時吃狗肉。
可見一般遞解人,
生活有時也不俗。
Bào Hương cẩu nhục
Quá Quả Đức thì ngật tiên ngư,
Quá Bào Hương thì ngật cẩu nhục;
Khả kiến nhất ban đệ giải nhân,
Sinh hoạt hữu thì dã bất tục.
Dịch nghĩa
Khi qua Quả Đức, ăn cá tươi,
Lúc qua Bào Hương, ăn thịt chó;
Thế mới biết bọn lính giải tù,
Cách sống có lúc cũng sành sỏi.

Trúc lộ phu

築路夫
餐風浴雨未曾休,
慘淡經營築路夫。
車馬行人來往者,
幾人感謝你功勞。
Trúc lộ phu
Xan phong dục vũ vị tằng hưu,
“Thảm đạm kinh doanh” trúc lộ phu;
Xa mã hành nhân lai vãng giả,
Kỷ nhân cảm tạ nhĩ công lao?
Dịch nghĩa
Dãi gió dầm mưa chưa từng lúc nghỉ,
Người phu làm đường tận tuỵ với công việc;
Ngựa xe và khách bộ hành qua lại,
Mấy ai biết cảm tạ công lao của anh?

Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích

獄丁竊我之士的
一生正直又堅強,
攜手同行幾雪霜。
恨彼奸人離我倆,
長膠我你各凄涼。
Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích
Nhất sinh chính trực hựu kiên cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.
Dịch nghĩa
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dắt dìu nhau cùng đi đã mấy mùa sương tuyết;
Giận kẻ gian kia chia rẽ hai ta,
Khiến cho tôi và anh phải buồn thương mãi.

Công lý bi

公里碑
不高亦不遠,
非帝亦非王。
小小一片石,
屹立大道旁。
人賴你指示,
不走錯向方。
你給人指示,
途路之短長。
你功也不小,
人人不你忘。
Công lý bi
Bất cao diệc bất viễn,
Phi đế diệc phi vương;
Tiểu tiểu nhất phiến thạch,
Ngật lập đại đạo bàng;
Nhân lai nhĩ chỉ thị,
Bất tẩu thác hướng phương;
Nhĩ cấp nhân chỉ thị,
Đồ lộ chi đoản trường;
Nhĩ công dã bất tiểu,
Nhân nhân bất nhĩ vương.
Dịch nghĩa
Không cao cũng không xa,
Chẳng đế cũng chẳng vương;
Một phiến đá nho nhỏ,
Đứng sừng sững bên đường lớn;
Người nhờ anh chỉ lối,
Đi không sai phương hướng;
Anh chỉ dẫn cho người,
Con đường ngắn hay dài;
Công anh cũng không nhỏ,
Mọi người chẳng quên anh.

Tân Dương ngục trung hài

賓陽獄中孩
Oa…! Oa…! Oaa…!
家怕當兵救國家。
所以我年才半歲,
要到獄中跟着媽。
Tân Dương ngục trung hài
Oa…! Oa…! Oaa…!
Gia phạ đương binh cứu quốc gia;
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,
Yếu đáo ngục trung căn trước ma.
Dịch nghĩa
Oa…! Oa…! Oaa…!
Cha sợ vào lính cứu nước nhà;
Cho nên em vừa được nửa tuổi,
Đã phải vào nhà tù cùng mẹ.

Ký Nê Lỗ

寄尼魯
我奮鬥的君活動,
君入獄的我住籠。
萬里遥遥未见面,
神交自在不言中。
我們遭逢本是同,
不同的是所遭逢。
我居友者圈囹裡,
君在仇人梏桎中。
Ký Nê Lỗ
Ngã phấn đấu thì quân hoạt động,
Quân nhập ngục thì ngã trú lung;
Vạn lý dao dao vị kiến diện,
Thần giao tự tại bất ngôn trung.
Ngã môn tao phùng bản thị đồng,
Bất đồng đích thị sở tao phùng;
Ngã cư hữu giả quyền linh lý,
Quân tại cừu nhân cốc trất trung.
Dịch nghĩa
Lúc tôi phấn đấu, anh hoạt động,
Lúc anh vào ngục, tôi ngồi tù;
Muôn dặm xa xôi, chưa từng gặp mặt,
Nhưng mối giao cảm sâu xa đã sẵn trong chỗ không lời.
Cảnh ngộ của chúng ta vốn giống nhau,
Nhưng không giống nhau lại cũng là ở cảnh ngộ;
Tôi, trong nhà tù của người bè bạn,
Còn anh, trong xiềng xích của kẻ thù.

Đăng quang phí

燈光費
入籠要納燈光费,
桂幣人人各六元。
步入朦朧幽暗地,
光明值得六元錢。
Đăng quang phí
Nhập lung yếu nạp đăng quang phí,
Quế tệ nhân nhân các lục nguyên;
Bộ nhập mông lung u ám địa,
Quang minh trị đắc lục nguyên tiền!
Dịch nghĩa
Vào tù phải nộp khoản tiền đèn,
Tiền Quảng Tây mỗi người sáu đồng;
Bước vào nơi tối tăm mù mịt,
Sự quang minh đáng giá có sáu đồng.

Ngục trung sinh hoạt

獄中生活
每人各有一火爐,
大大小小幾個鍋。
煮飯煮茶又煮采,
成天煙火沒時無。
Ngục trung sinh hoạt
Mỗi nhân các hữu nhất hoả lô,
Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa;
Chử phạn chử trà hựu chử thái,
Thành thiên yên hoả một thì vô.
Dịch nghĩa
Mỗi người đều có một hoả lò,
Và mấy chiếc nồi lớn nhỏ;
Thổi cơm, đun trà, lại nấu thức ăn,
Suốt ngày khói lửa không lúc nào ngớt.

Quách tiên sinh

郭先生
萍水相逢談片刻,
郭君對我甚慇懃。
雪中送炭雖然少,
世界仍存這種人。
Quách tiên sinh
“Bình thủy tương phùng”, đàm phiến khắc,
Quách quân đối ngã thậm ân cần;
“Tuyết trung tống thán” tuy nhiên thiểu,
Thế giới nhưng tồn giá chủng nhân.
Dịch nghĩa
“Bèo nước gặp nhau”, chuyện trò chốc lát,
Bác Quách đối với ta hết sức ân cần;
Những người “trong tuyết cho than” tuy rằng ít,
Nhưng trên đời vẫn còn những người như thế.

Mạc ban trưởng

莫班長
慷慨賓陽莫班長,
解囊買飯給囚人。
晚間解縛給他睡,
不用威權只用恩。
Mạc ban trưởng
Khảng khái Tân Dương, Mạc ban trưởng,
Giải nang mãi phạn cấp tù nhân;
Vãn gian giải phược cấp tha thụy,
Bất dụng uy quyền, chỉ dụng ân.
Dịch nghĩa
Hào hiệp thay, trưởng ban họ Mạc ở Tân Dương,
Bỏ tiền túi mua cơm cho tù nhân;
Tối đến cởi trói cho họ ngủ,
Không dùng uy quyền, chỉ dùng ân nghĩa.

Thiên Giang ngục

遷江獄
籠外六十九人盎,
籠中的盎不知數。
監房卻像刨藥堂,
又像街上買盎鋪。
Thiên Giang ngục
Lung ngoại lục thập cửu nhân áng,
Lung trung đích áng bất tri số;
Giam phòng khước tượng bào dược đường,
Hựu tượng nhai thượng mại áng phố.
Dịch nghĩa
Ngoài lao sáu mươi chín cái ang người,
Ang ở trong lao nhiều vô kể;
Buồng giam mà lại giống nhà bào chế thuốc,
Ai cũng giống hệt như cửa hàng bán ang ngoài phố!

Tháp hoả xa vãng Lai Tân

搭火車往來賓
幾十日來勞走路,
今天得搭火車行。
雖然只得坐炭上,
畢竟比徒步漂亮。
Tháp hoả xa vãng Lai Tân
Kỷ thập nhật lai lao tẩu lộ,
Kim thiên đắc tháp hoả xa hành;
Tuy nhiên chỉ đắc toạ thán thượng,
Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lương.
Dịch nghĩa
Mấy chục ngày qua đi bộ mệt nhoài,
Hôm nay được đáp xe lửa;
Dù chỉ được ngồi trên đống than,
Nhưng so với đi bộ còn sang chán!

Tha tưởng đào

他想逃
一心只想自由境,
揜命跳車他走開。
可惜他跑半里許,
又被警兵捉回來。
Tha tưởng đào
Nhất tâm chỉ tưởng tự do cảnh,
Yểm mệnh khiêu xa tha tẩu khai;
Khả tích tha bào bán lý hử,
Hựu bị cảnh binh tróc hồi lai!
Dịch nghĩa
Một lòng chỉ mong mỏi cảnh tự do,
Liều mạng nhảy xuống xe, anh ấy trốn;
Tiếc thay, mới chạy chừng nửa dặm,
Lại bị cảnh binh bắt đem về.

Lai Tân

來賓
監房班長天天賭,
警長貪吞解犯錢。
縣長燒燈辨公事,
來賓依舊太平天。
Lai Tân
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
Dịch nghĩa
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.

Đáo Liễu Châu

到柳州
千阜萬苦非無限,
九日吾人到柳州。
回顧百餘天惡夢,
醒來面尚帶餘愁。
Đáo Liễu Châu
Thiên tân vạn khổ phi vô hạn,
Cửu nhật ngô nhân đáo Liễu Châu;
Hồi cố bách dư thiên ác mộng,
Tỉnh lai diện thượng đới dư sầu.
Dịch nghĩa
Muôn cay nghìn đắng không phải là vô hạn,
Ngày mồng chín, ta đến Liễu Châu;
Ngoảnh lại, hơn trăm ngày ác mộng,
Tỉnh ra, trên mặt còn vương chút u sầu.

Cửu bất đệ giải

久不遞解
苦葯杯將乾更苦,
難關末步倍艱難。
長官部只隔里許,
何故長留我此間。
Cửu bất đệ giải
Khổ dược, bôi tương can cánh khổ,
Nan quan, mạt bộ bội gian nan;
Trưởng quan bộ chỉ cách lý hử,
Hà cố trường lưu ngã thử gian?
Dịch nghĩa
Chén thuốc đắng, lúc gần cạn càng đắng,
Cửa ải khó, đến chặng cuối càng khó khăn;
Dinh trưởng quan chỉ cách chừng một dặm,
Cớ sao giữ mãi ta ở chốn này?

Dạ bán

夜半
睡時都像純良漢,
醒後才分善惡人。
善惡原來無定性,
爹由教育的原因。
Dạ bán
Thụy thì đô tượng thuần lương hán,
Tỉnh hậu tài phân thiện, ác nhân;
Thiện, ác nguyên lai vô định tính,
Đa do giáo dục đích nguyên nhân.
Dịch nghĩa
Lúc ngủ, mọi người đều có vẻ thuần hậu,
Tỉnh dậy, mới phân biệt rõ người thiện kẻ ác;
Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu,
Phần lớn đều do giáo dục mà nên.

Đáo trưởng quan bộ

到長官部
想這難關是最后,
自由日子快來臨。
那知還有難關在,
我們應該解桂林。
Đáo trưởng quan bộ
Tưởng giá nan quan thị tối hậu,
Tự do nhật tử khoái lai lâm;
Na tri hoàn hữu nan quan tại:
Ngã mẫn ưng cai giải Quế Lâm.
Dịch nghĩa
Tưởng rằng cửa ải khó khăn này là cuối cùng,
Ngày tự do đang đến nhanh;
Ngờ đâu còn cửa ải khó khăn nữa:
Chúng tôi còn bị giải đi Quế Lâm.

Tứ cá nguyệt liễu

四個月了
一日囚千秋在外,
古人之話不差訛。
四月非人類生活,
使余憔悴十年多。
囚為
四月吃不飽,
四月睡不好。
四月不換衣,
四月不洗澡。
所以
落了一隻牙,
髮白了許多。
黑瘦像餓鬼,
全身是癩痧。
幸而
持久和忍耐,
不肯退一分。
物質雖痛苦,
不動搖精神。
Tứ cá nguyệt liễu
“Nhất nhật tù, thiên thu tại ngoại”,
Cổ nhân chi thoại bất sai ngoa!
Tứ nguyệt phi nhân loại sinh hoạt,
Sử dư tiều tuỵ thập niên đa.
Nhân vị:
Tứ nguyệt ngật bất bão,
Tứ nguyệt thuỵ bất hảo,
Tứ nguyệt bất hoán y,
Tứ nguyệt bất tẩy tảo.
Sở dĩ:
Lạc liễu nhất chích nha,
Phát bạch liễu hứa đa,
Hắc sấu tượng ngã quỷ,
Toàn thân thị lại sa.
Hạnh nhi:
Trì cửu hoà nhẫn nại,
Bất khẳng thoái nhất phân,
Vật chất tuy thống khổ,
Bất động dao tinh thần.
Dịch nghĩa
“Một ngày tù nghìn thu ở ngoài”,
Lời nói người xưa thực không sai;
Sống chẳng ra người vừa bốn tháng,
Khiến mình tiều tuỵ còn hơn mười năm.
Bởi vì:
Bốn tháng ăn không no,
Bốn tháng ngủ không yên,
Bốn tháng không thay áo,
Bốn tháng không tắm rửa.
Cho nên:
Rụng mất một chiếc răng,
Tóc bạc đi nhiều,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở khắp thân mình,
May sao:
Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần.

Trên đây là phần tiếp theo của tập thơ Nhật ký trong tù của nhà thơ Hồ Chí Minh mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Tập thơ này đã được nhiều bạn đọc yêu thơ biết đến. Trong dó có một số bài thơ đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình sách giáo khoa. Bên cạnh đó ngày 1 tháng 10 năm 2012 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định công nhận bảo vật quốc gia cho tác phẩm Ngục trung nhật ký. Đừng quên đón đọc những phần tiếp theo trong tác phẩm nổi tiếng này bạn nhé!
Xem thêm: Nhà thơ Hồ Chí Minh và Tập thơ Nhật ký trong tù Phần cuối