Nhà thơ Guillaume Apollinaire và những áng thơ vang danh nhất phần 2

Trong nền văn học Pháp thì nhà thơ Guillaume Apollinaire là một gương mặt được mọi người quan tâm nhất. Ông là một người đam mê cuồng nhiệt văn học nghệ thuật. Sở hữu một chùm thi phẩm đặc sắc đi vào lòng bạn đọc. Với ngòi bút tài hoa của mình mà những bài thơ của ông được mọi người ca tụng và ngưỡng mộ. Hãy đón xem bài viết của chúng tôi để điểm danh những thi phẩm xuất sắc của ông nhé!

Du khách Le voyageur

A Fernand Fleuret
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant
La vie est variable aussi bien que l’Euripe
Tu regardais un banc de nuages descendre
Avec le paquebot orphelin vers les fièvres futures
Et de tous ces regrets de tous ces repentirs
Te souviens-tu
Vagues poissons arqués fleurs submarines
Une nuit c’était la mer
Et les fleuves s’y répandaient
Je m’en souviens je m’en souviens encore
Un soir je descendis dans une auberge triste
Auprès de Luxembourg
Dans le fond de la salle il s’envolait un Christ
Quelqu’un avait un furet
Un autre un hérisson
L’on jouait aux cartes
Et toi tu m’avais oublié
Te souviens-tu du long orphelinat des gares
Nous traversâmes des villes qui tout le jour tournaient
Et vomissaient la nuit le soleil des journées
O matelots ô femmes sombres et vous mes compagnons
Souvenez-vous-en
Deux matelots qui ne s’étaient jamais quittés
Deux matelots qui ne s’étaient jamais parlé
Le plus jeune en mourant tomba sur le côté
O vous chers compagnons
Sonneries électriques des gares chant des moissonneuses
Traîneau d’un boucher régiment des rues sans nombre
Cavalerie des ponts nuits livides de l’alcool
Les villes que j’ai vues vivaient comme des folles
Te souviens-tu des banlieues et du troupeau plaintif des paysages
Les cyprès projetaient sous la lune leurs ombres
J’écoutais cette nuit au déclin de l’été
Un oiseau langoureux et toujours irrité
Et le bruit éternel d’un fleuve large et sombre
Mais tandis que mourants roulaient vers l’estuaire
Tous les regards tous les regards de tous les yeux
Les bords étaient déserts herbus silencieux
Et la montagne à l’autre rive était très claire
Alors sans bruit sans qu’on pût voir rien de vivant
Contre le mont passèrent des ombres vivaces
De profil ou soudain tournant leurs vagues faces
Et tenant l’ombre de leurs lances en avant
Les ombres contre le mont perpendiculaire
Grandissaient ou parfois s’abaissaient brusquement
Et ces ombres barbues pleuraient humainement
En glissant pas à pas sur la montagne claire
Qui donc reconnais-tu sur ces vieilles photographies
Te souviens-tu du jour où une vieille abeille tomba dans le feu
C’était tu t’en souviens à la fin de l’été
Deux matelots qui ne s’étaient jamais quittés
L’aîné portait au cou une chaîne de fer
Le plus jeune mettait ses cheveux blonds en tresse
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant
La vie est variable aussi bien que l’Euripe

Dịch

Tặng Fernand Fleuret
Mở cho tôi cửa này tôi khóc mà gõ cửa
Đời đổi thay như eo biển cuộn dòng
Em nhìn một dải mây sa xuống
Theo con tàu mồ côi về những cơn sốt tương lai
Và trong tất cả những tiếc nuối ấy tất cả những ân hận ấy
Em nhớ chăng
Những con sóng những con cá cong mình những bông hoa trên mặt biển
Một đêm đấy là biển
Những dòng sông toả vào
Tôi còn nhớ tôi còn nhớ mãi
Một chiều bước xuống quán trọ buồn
Gần Luxembourg
Ở cuối phòng bay lên Đức Chúa
Ai đó có con chồn
Người khác có con nhím
Người ta chơi bài
Còn em em đã quên tôi
Em nhớ chăng trại mồ côi dài của những nhà ga
Mình đi ngang các thành phố quay cuồng suốt buổi
Và đêm về mửa ra vầng mặt trời ngày
Ôi những thuỷ thủ ôi những đàn bà u tối và các anh những bạn đường của tôi
Các anh hãy nhớ
Hai thuỷ thủ không bao giờ rời nhau
Hai thuỷ thủ không bao giờ nói với nhau
Người trẻ hơn ngã nghiêng mà chết
Ôi các bạn đường của tôi
Chuông điện các nhà ga bài ca các cô thợ gặt
Xe kéo anh mổ bò đạo quân vô vàn phố xá
Đội kỵ binh các cây cầu những đêm tái mét rượu cồn
Những thành phố tôi đã thấy sống như những con điên
Em nhớ chăng những ngoại ô và bầy phong cảnh than van
Những cây bách dưới trăng đổ bóng
Đêm ấy tôi nghe lúc mùa hạ sắp tàn
Một con chim ưu tư và luôn bứt rứt
Và tiếng muôn đời một dòng sông rộng tối
Nhưng trong khi lờ đờ đảo về cửa sông
Mọi cái nhìn mọi cái nhìn của mọi con mắt
Hai bờ hoang vu cỏ rậm im lìm
Và quả núi bờ bên kia rất sáng
Lúc ấy không tiếng động không thể thấy chút gì của sự sống
Trên nền núi diễu qua những cái bóng hoạt động
Những bóng nhìn nghiêng hay đột nhiên quay ra những gương mặt mơ hồ
Tay cầm bóng những chiếc lao chĩa về phía trước
Những cái bóng trên triền núi cao dựng đứng
Lớn lên hay đôi khi thấp xuống thình lình
Và những cái bóng râu xồm khóc y như người
Trong lúc lướt từng bước trên sườn núi sáng
Em có nhận ra ai trên những tấm ảnh cũ này
Em có nhớ ngày một con ong rơi vào lửa
Lúc ấy là cuối mùa hè em nhớ đó
Hai thuỷ thủ không bao giờ rời nhau
Người lớn tuổi hơn cổ đeo dây chuyền sắt
Người trẻ hơn tóc tết bím vàng hoe
Mở cho tôi cửa này tôi khóc mà gõ cửa
Đời đổi thay như eo biển cuộn dòng

Đêm sông Ranh Nuit Rhénane

Mon verre est plein d’un vin trembleur comme une flamme
Ecoutez la chanson lente d’un batelier
Qui raconte avoir vu sous la lune sept femmes
Tordre leurs cheveux verts et longs jusqu’à leurs pieds
Debout chantez plus haut en dansant une ronde
Que je n’entende plus le chant du batelier
Et mettez près de moi toutes les filles blondes
Au regard immobile aux nattes repliées
Le Rhin le Rhin est ivre où les vignes se mirent
Tout l’or des nuits tombe en tremblant s’y refléter
La voix chante toujours à en râle-mourir
Ces fées aux cheveux verts qui incantent l’été
Mon verre s’est brisé comme un éclat de rire

Dịch

Cốc ta đầy rượu rung lên như lửa
Hãy lắng nghe bài hát bác chở thuyền
Kể rằng có bảy nàng thiếu nữ dưới trăng đêm
Xoắn những mái tóc xanh dài chấm gót
Hãy đứng lên, hát to lên và nhảy thành vòng
Cho tiếng hát kia ta đừng nghe nữa
Hãy đưa tới bên ta tất cả những cô gái tóc vàng
Ánh mắt im lìm bím tóc gấp lên
Sông Ranh sông Ranh say bóng những vườn nho
Vàng rụng nghìn đêm soi rung mặt nước
Giọng hát mãi rỉ rên khao khao muốn chết
Về những nàng tiên tóc xanh bùa chú mùa hè
Cốc rượu vỡ tan như một ré cười.

Góc phố Le coin

Les vieux miséreux attendent, en battant la semelle, qu’un patron les embauche.
Ils attendent et frissonnent, les mains dans les poches,
Ils ne se parlent pas entre eux car ils ne se connaissent pas.
Parfois l’un d’eux murmure Nom de Dieu tout bas.
Les fiacres en roulant près du trottoir, les éclaboussent
Les passants en pardessus, sans les voir les repoussent
La pluie souvent fes mouifle jusqu’aux os
Ils relèvent le col de la veste courbent un peu plus le dos
Disent Sacré bon Dieu de bon Dieu et toussent.
Ça durera jusqu’au jour où dans l’hôpital
Ils cracheront le reste de la vie en noir en pensant « Ça y est jusqu’à la gauche »
Ils pleureront peut-être comme un petit gosse qui a mal
Et crèveront en murmurant : C’est-y l’bon Dieu qui m’embauche ?

Dịch

Những ông lão nghèo, giậm chân cho ấm, đợi người thuê
Tay đút túi quần, họ run run chờ đợi
Không nói chuyện với nhau vì chẳng hề quen biết
Đôi khi có kẻ lầm bầm Mẹ kiếp giọng khẽ khàng
Xe ngựa lăn bên hè, vẩy bùn vào họ
Người qua đường mặc áo choàng, không nhìn xô đẩy họ
Nhiều khi mưa lạnh thấu xương
Họ dựng cổ áo vét lên lưng lại còng thêm xuống
Mẹ kiếp Trời hỡi Trời và họ húng hắng ho
Cứ như vậy cho tới ngày vào viện
Khạc nốt phần đời đen kịt nghĩ rằng “Đây rồi này đến đáy”
Có lẽ sẽ khóc như một đứa trẻ bị đau
Rồi sẽ ngoẻo miệng lầm rầm: “Có lẽ Đứ Chúa Trời kia mướn ta đó hỉ?”

Hái hoa La cueillette

Nous vînmes au jardin fleuri pour la cueillette.
Belle, sais-tu combien de fleurs, de roses-thé,
Roses pâles d’amour qui couronnent ta tête,
S’effeuillent chaque été?
Leurs tiges vont plier au grand vent qui s’élève.
Des pétales de rose ont chu dans le chemin.
Ô Belle, cueille-les, puisque nos fleurs de rêve
Se faneront demain!
Mets-les dans une coupe et toutes portes doses,
Alanguis et cruels, songeant aux jours défunts,
Nous verrons l’agonie amoureuse des roses
Aux râles de parfums.
Le grand jardin est défleuri, mon égoïste,
Les papillons de jour vers d’autres fleurs ont fui,
Et seuls dorénavant viendront au jardin triste
Les papillons de nuit.
Et les fleurs vont mourir dans la chambre profane.
Nos roses tour à tour effeuillent leur douleur.
Belle, sanglote un peu… Chaque fleur qui se fane,
C’est un amour qui meurt!

Dịch

Vườn đầy hoa ta hãy vào để hái
Người đẹp ơi em có biết bao nhiêu
Đoá hồng vàng hồng nhạt của tình yêu
Tô điểm đầu em hè sang lại rụng?
Trước gió to thân cây hoa ngã xuống
Những cánh hoa rơi lả tả đầy đường
Người đẹp ơi hái lấy những bông hoa
Vì giấc mơ hoa nay mai tàn úa
Đặt hoa vào và ra cài then cửa
Nhớ ngày qua lòng buồn bã héo hon
Sẽ thấy hoa thân thuộc vàng úa
Trút hương thơm khi tàn úa rụng rơi
Vườn rộng vắng những bông hoa độc đáo
Khiến bướm vàng đi nơi khác tìm hoa
Và từ nay trong vườn đâm vắng lặng
Có bướm đêm lui tới mà thôi
Trong phòng tục phàm hoa hồng tàn lụi
Hồng của ta lần lượt tàn phai
Người đẹp ơi, hãy dừng đôi chút nghẹn ngào
Khi hoa tàn là tình đang chết đi

Hoa bả chó Les colchiques

Le pré est vénéneux mais joli en automne
Les vaches y paissant
Lentement s’empoisonnent
Le colchique couleur de cerne et de lilas
Y fleurit tes yeux sont comme cette fleur-la
Violatres comme leur cerne et comme cet automne
Et ma vie pour tes yeux lentement s’empoisonne
Les enfants de l’école viennent avec fracas
Vêtus de hoquetons et jouant de l’harmonica
Ils cueillent les colchiques qui sont comme des mères
Filles de leurs filles et sont couleur de tes paupières
Qui battent comme les fleurs battent au vent dément
Le gardien du troupeau chante tout doucement
Tandis que lentes et meuglant les vaches abandonnent
Pour toujours ce grand pré mal fleuri par l’automne

Dịch

Cánh đồng vào thu độc địa mà xinh tươi
Đàn bò gặm cỏ nơi này
Chậm rãi từng con nhiễm độc
Hoa bả chó màu thâm quầng và màu hoa lila
Nở nơi này mắt em như hoa
Tím nhạt như quầng hoa và như mùa thu ấy
Chầm chậm mắt em thấm độc đời ta
Lũ trẻ tan trường ầm ĩ đi qua
Khoác áo vải thô và thổi ác-mô-ni-ca
Chúng hái hoa những bông hoa giống như người mẹ
Con gái của con gái mẹ hoa màu mi mắt em
Mi mắt đập như hoa đập trước gió điên
Kẻ chăn bò ca khúc ca êm
Trong khi lũ bò chậm chạp rống lên
Vĩnh biệt cánh đồng mùa thu nở độc

Hoàng hôn Crépuscule

A Mademoiselle Marie Laurencin
Frôlée par les ombres des morts
Sur l’herbe où le jour s’exténue
L’arlequine s’est mise nue
Et dans l’étang mire son corps
Un charlatan crépusculaire
Vante les tours que l’on va faire
Le ciel sans teinte est constellé
D’astres pâles comme du lait
Sur les trétaux l’arlequin blême
Salue d’abord les spectateurs
Des sorciers venus de Bohême
Quelques fées et les enchanteurs
Ayant décroché une étoile
Il la manie à bras tendu
Tandis que des pieds un pendu
Sonne en mesure les cymbales
L’aveugle berce un bel enfant
La biche passe avec ses faons
Le nain regarde d’un air triste
Grandir l’arlequin trismégiste

Dịch

Tặng cô Marie Laurecin
Những bóng ma lướt qua người
Trên cỏ ánh ngày sắp tắt
Cô hề tự khoả thân
Và soi mình trong đầm
Anh bán thuốc dạo hoàng hôn
Khoe khoang những màn sắp diễn
Trời không sắc và đầy sao
Tinh tú nhợt nhạt như sữa
Trên sàn anh hề xanh xao
Trước hết cúi chào khán giả
Những gã phù thuỷ từ Bohême
Vài cô tiên và những kẻ mê hoặc
Tháo ra khỏi móc một ngôi sao
Anh vươn tay múa may với nó
Trong khi một người treo cổ
Đánh chũm choẹ giữ nhịp bằng chân
Người mù ru một thằng bé kháu
Nai mẹ cùng nai con đi qua
Chú lùn buồn bã nhìn đau đáu
Anh hề vụt lớn gấp ba

Lời vĩnh biệt L’adieu

J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends.
Dịch nghĩa
Anh đã hái nhành hoa thạch thảo
Mùa thu chết rồi, em nhớ cho
Dẫu chúng ta không còn gặp trên đời
Vẫn còn đây hương thời gian thạch thảo
Và em nhớ cho,anhvẫn chờ em

Marie

Vous y dansiez petite fille
Y danserez-vous mère-grand
C’est la maclotte qui sautille
Toutes les cloches sonneront
Quand donc reviendrez-vous Marie
Les masques sont silencieux
Et la musique est si lointaine
Qu’elle semble venir des cieux
Oui je veux vous aimer mais vous aimer à peine
Et mon mal est délicieux
Les brebis s’en vont dans la neige
Flocons de laine et ceux d’argent
Des soldats passent et que n’ai-je
Un coeur à moi ce coeur changeant
Changeant et puis encor que sais-je
Sais-je où s’en iront tes cheveux
Crépus comme mer qui moutonne
Sais-je où s’en iront tes cheveux
Et tes mains feuilles de l’automne
Que jonchent aussi nos aveux
Je passais au bord de la Seine
Un livre ancien sous le bras
Le fleuve est pareil à ma peine
Il s’écoule et ne tarit pas
Quand donc finira la semaine

Dịch

Em đã nhảy khi còn bé gái
Thành mẹ già em nhảy nữa chăng
Đó là điệu maclotte tung tăng
Mọi quả chuông sẽ đổ rộn ràng
Marie biết bao giờ em trở lại
Những chiếc mặt nạ lặng im
Và âm nhạc sao xa xăm quá
Hình như đến tự những tầng trời
Phải tôi muốn yêu em nhưng yêu thoang thoảng thôi
Và ngọt ngào là nỗi đau tôi
Những con cừu trong tuyết ra đi
Những cụm len và những cụm bạc
Những người lính đi qua và sao tôi chẳng có
Một con tim của mình con tim đổi thay
Đổi thay và lại nữa tôi nào biết được
Tôi biết được tóc em đi về đâu
Tóc loăn xoăn như biển sóng nhấp nhô
Tôi biết được tóc em đi về đâu
Và bàn tay em lá thu
Ước cũng rụng lời chúng mình thổ lộ
Tôi đi qua bờ sông Seine
Tay cắp một quyển sách cũ
Con sông như nỗi ưu phiền
Cứ chảy đi mà chẳng cạn
Bao giờ mới hết tuần lễ đây

Marizibill Marizibill

Dans la Haute-Rue à Cologne
Elle allait et venait le soir
Offerte à tous en tout mignonne
Puis buvait lasse des trottoirs
Très tard dans les brasseries borgnes
Elle se mettait sur la paille
Pour un maquereau roux et rose
C’était un juif il sentait l’ail
Et l’avait venant de Formose
Tirée d’un bordel de Changaï
Je connais des gens de toutes sortes
Ils n’égalent pas leurs destins
Indécis comme feuilles mortes
Leurs yeux sont des feux mal éteints
Leurs coeurs bougent comme leurs portes

Dịch

Trên con Đại Lộ ở Cologne
Nàng dạo bước mỗi tối
Dễ thương nhí nhảnh đón mời
Rồi mỏi mệt hè phố đêm thâu
Vào các quán rượu tồi tàn giải khát
Nàng phải ăn sương nuốt gió
Cho một tên ma cô da hồng tóc đỏ
Hắn gốc Do Thái và nồng mùi tỏi
Đã từ Đài Loan sang Thượng Hải
Chuộc nàng khỏi chốn lầu xanh
Tôi, quen đủ loại người
Chẳng xứng với định mệnh
Thẫn thờ như lá rơi
Mắt họ là những đóm lửa chưa nguôi
Tim họ đong đưa như cánh cửa

Mùa thu Automne

Dans le brouillard s’en vont un paysan cagneux
Et son boeuf lentement dans le brouillard d’automne
Qui cache les hameaux pauvres et vergogneux

Et s’en allant là-bas le paysan chantonne
Une chanson d’amour et d’infidélité
Qui parle d’une bague et d’un coeur que l’on brise

Oh! l’automne l’automne a fait mourir l’été
Dans le brouillard s’en vont deux silhouettes grises.

Dịch

Người nông dân vừa đi trong sương mù
Với con bò giữa sớm mai thu
Nó che nỗi thẹn thuồng của thôn nhỏ.
Anh vừa đi vừa hát ngân nga
Bài hát tình yêu và ruồng bỏ
Nhắc chiếc nhẫn và trái tim tan vỡ.
Mùa thu đã giết chết mùa hè
Hai bóng mờ đi trong sương mù làng quê.

Nàng Thu ốm Automne malade

Automne malade et adoré
Tu mourras quand l’ouragan soufflera dans les roseraies
Quand il aura neigé
Dans les vergers
Pauvre automne
Meurs en blancheur et en richesse
De neige et de fruits mûrs
Au fond du ciel
Des éperviers planent
Sur les nixes nicettes aux cheveux verts et naines
Qui n’ont jamais aimé
Aux lisières lointaines
Les cerfs ont bramé
Et que j’aime ô saison que j’aime tes rumeurs
Les fruits tombant sans qu’on les cueille
Le vent et la forêt qui pleurent
Toutes leurs larmes en automne feuille à feuille

Dịch

Hỡi nàng Thu ốm đau yêu quý
Em sẽ qua đời khi vườn hồng bị bão
Khi tuyết trắng gieo bông
Vào vườn quả
Tội nghiệp nàng Thu
Em hãy chết trắng trinh trong sự phồn vinh
Của tuyết rơi và quả mọng
Trên nền trời xanh
Đàn chim cắt lượn
Trên những thuỷ thần thấp bé tóc xanh
Chưa hề biết yêu
Xa tận bìa rừng
Nai kêu văng vẳng
Thu ơi ta yêu sao tiếng em xào xạc
Những quả rơi không cần phải hái
Gió và rừng khóc than
Tất cả lệ thu rơi từng lá một

Nếu anh chết ở nơi ấy… Si je mourais là-bas…

Si je mourais là-bas sur le front de l’armée
Tu pleurerais un jour ô Lou ma bien-aimée
Et puis mon souvenir s’éteindrait comme meurt
Un obus éclatant sur le front de l’armée
Un bel obus semblable aux mimosas en fleur
Et puis ce souvenir éclaté dans l’espace
Couvrirait de mon sang le monde tout entier
La mer les monts les vals et l’étoile qui passe
Les soleils merveilleux mûrissant dans l’espace
Comme font les fruits d’or autour de Baratier
Souvenir oublié vivant dans toutes choses
Je rougirais le bout de tes jolis seins roses
Je rougirais ta bouche et tes cheveux sanglants
Tu ne vieillirais point toutes ces belles choses
Rajeuniraient toujours pour leurs destins galants
Le fatal giclement de mon sang sur le monde
Donnerait au soleil plus de vive clarté
Aux fleurs plus de couleur plus de vitesse à l’onde
Un amour inouï descendrait sur le monde
L’amant serait plus fort dans ton corps écarté
Lou si je meurs là-bas souvenir qu’on oublie
Souviens-t’en quelquefois aux instants de folie
De jeunesse et d’amour et d’éclatante ardeur –
Mon sang c’est la fontaine ardente du bonheur
Et sois la plus heureuse étant la plus jolie
Ô mon unique amour et ma grande folie
L a nuit descend
O n y pressent
U n long destin de sang

Dịch

Nếu anh chết ở nơi ấy tiền phương
Em yêu dấu Lou ơi có ngày em sẽ khóc
Và kỷ niệm về anh rồi sẽ tắt
Như quả đạn nổ ngoài tiền phương
Quả đạn đẹp như cây mimosa đơm đầy hoa vàng
Rồi kỷ niệm ấy vỡ trong không gian
Sẽ đem máu anh nhuộm toàn thế giới
Biển núi thung và ngôi sao lướt vội
Những mặt trời kỳ diệu chín giữa không gian
Như quanh vùng de Baratier chín những trái vàng
Kỷ niệm lãng quên vẫn sống trong mọi thứ
Anh sẽ làm đỏ núm vú em hồng
Làm đỏ miệng em và tóc em đẫm máu
Em sẽ chẳng già đi đâu mọi thứ
Sẽ trẻ lại hoài cho trọn số đào hoa
Máu anh đổ ra trên thế gian
Sẽ cho mặt trời thêm sức sáng
Cho hoa thêm màu cho nhanh thêm sóng
Một tình yêu phi thường xẽ hạ xuống thế gian
Người tình sẽ mạnh hơn trong thân thể em xa cách
Lou ơi nếu anh chết ở nơi ấy kỷ niệm mà người đời đã lãng quên
Em hãy nhớ đôi lần trong những phút cuồng điên
Của tuổi trẻ tình yêu huy hoàng hừng hực
Máu anh chính là nguồn nóng bỏng của hạnh phúc
Vàem xinh đẹp nhất em hãy là người sung sướng nhất
Ôi tình yêu duy nhất và sự điên cuồng lớn nhất của anh
L đêm xuống
O người ta dự cảm
U dài rất dài một số mệnh đẫm máu

Người di cư ở phố Lando Road

A André Billy.
Le chapeau à la main il entra du pied droit
Chez un tailleur très chic et fournisseur du roi
Ce commerçant venait de couper quelques têtes
De mannequins vêtus comme il faut qu’on se vête
La foule en tous sens remuait en mêlant
Des ombres sans amour qui se traînaient par terre
Et des mains vers le ciel pleins de lacs de lumière
S’envolaient quelquefois comme des oiseaux blancs
Mon bateau partira demain pour l’Amérique
Et je ne reviendrai jamais
Avec l’argent gardé dans les prairies lyriques
Guider mon ombre aveugle en ces rues que j’aimais
Car revenir c’est bon pour un soldat des Indes
Les boursiers ont vendu tous mes crachats d’or fin
Mais habillé de neuf je veux dormir enfin
Sous des arbres pleins d’oiseaux muets et de singes
Les mannequins pour lui s’étant déshabillés
Battirent leurs habits puis les lui essayèrent
Le vêtement d’un lord mort sans avoir payé
Au rabais l’habilla comme un millionnaire
Au dehors les années
Regardaient la vitrine
Les mannequins victimes
Et passaient enchaînées
Intercalées dans l’an c’étaient les journées neuves
Les vendredis sanglants et lents d’enterrements
De blancs et de tout noirs vaincus des cieux qui pleuvent
Quand la femme du diable a battu son amant
Puis dans un port d’automne aux feuilles indécises
Quand les mains de la foule y feuillolaient aussi
Sur le pont du vaisseau il posa sa valise
Et s’assit
Les vents de l’Océan en soufflant leurs menaces
Laissaient dans ses cheveux de longs baisers mouillés
Des émigrants tendaient vers le port leurs mains lasses
Et d’autres en pleurant s’étaient agenouillés
Il regarda longtemps les rives qui moururent
Seuls des bateaux d’enfants tremblaient à l’horizon
Un tout petit bouquet flottant à l’aventure
Couvrit l’Océan d’une immense floraison
Il aurait voulu ce bouquet comme la gloire
Jouer dans d’autres mers parmi tous les dauphins
Et l’on tissait dans sa mémoire
Une tapisserie sans fin
Qui figurait son histoire
Mais pour noyer changées en poux
Ces tisseuses têtues qui sans cesse interrogent
Il se maria comme un doge
Aux cris d’une sirène moderne sans époux
Gonfle-toi vers la nuit O Mer Les yeux des squales
Jusqu’à l’aube ont guetté de loin avidement
Des cadavres de jours rongés par les étoiles
Parmi le bruit des flots et des derniers serments

Dịch

Tay cầm mũ anh do dự bước vào
Hàng một ông thợ may rất xịn
Cung ứng của nhà vua ông vừa cắt cổ
Mấy manơkanh mặc đúng kiểu mốt sang.
Đám đông nháo nhào xáo trộn
Lê trên đất những bóng người chẳng chút tình yêu
Và đôi lúc những bàn tay giống như những con chim trắng
Bay lên trời sáng loáng vệt hồ ao.
Này mai sẽ khởi hành con tàu tôi đi sang nước Mỹ
Với tiền kiếm được giữa thảo nguyên mơ mộng
Chẳng bao giờ tôi còn quay lại nơi đây
Để dìu bóng tôi đi mù mờ giữa phố xá tôi yêu.
Bởi trở lại từ Ấn Độ như người lính Anh thật sướng
Còn với tôi bọn buôn chứng khoán đã bán hết huân chương
Nhưng mặc áo mới tinh tôi muốn cuối cùng yên nghỉ
Dưới rặng cây đầy những khỉ và chim.
Các giá mẫu vì anh đã cởi và rũ bụi
Thử cho anh một bộ áo quần
Của một huân tước chết không kịp lấy
Hạ giá tiền mà quần áo thật sang
Từ phía ngoài năm qua tháng lại
Ngó nhìn vào tủ kính phía trong
Các giá mẫu giống như người tuẫn tiết
Rồi bước đi trói buộc vào nhau
Cài vào năm là những ngày goá bụa
Những thứ sáu tang tóc rầm rề
Mây trên trời lẫn đen và lẫn trắng
Còn ông trời vừa nắng lại vừa mưa
Rồi giữa một cảnh thu thẫn thờ cây lá
Khi tay của đám đông cũng vẫy như lá mùa thu
Trên boong tàu anh đặt va li ngồi xuống
Gió đại dương thổi lời đe doạ
Để lại trên tóc anh ẩm ướt những nụ hôn
Những người di cư vẫy tay buồn nản
Còn có người quỳ sụp xuống khóc than.
Anh cứ nhìn rất lâu bêb bờ xa cách mãi
Ở chân trời những con tàu bé bỏng run run
Một bó hoa bé tí dạt vào vô định
Phủ đại dương cả một mùa hoa nở mênh mang.
Anh những muốn bó hoa giống như danh tiếng
Bập bềnh trôi trên biển khác giữa cá heo
Và người ta dệt vào trong trí nhớ
Một tấm thảm in lại cuộc đời anh
Một tấm thảm dài vô cùng vô tận.
Nhưng để dìm chết các cô thợ dệt
Cứ không ngừng cật vấn hỏi tra
Anh sẽ kết hôn như một thống lĩnh cộng hoà.
Giữa tiếng kêu than của một nàng tiên cá
Hỡi biển kia hãy dâng mãi trong đêm Mắt của đàn cá nhám
Cho đến rạng đông hãy còn dòm ngó từ xa
Những xác chết ban ngày bị sao đêm róc rỉa
Giữa sóng xô và những lời thề hận cuối cùng.

Ở La Xăngtê À La Santé

I
Avant d’entrer dans ma cellule
Il a fallu me mettre nu
Et quelle voix sinistre ulule
Guillaume qu’es-tu devenu
Le Lazare entrant dans la tombe
Au lieu d’en sortir comme il fit
Adieu adieu chantante ronde
Ô mes années ô jeunes filles
II
Non je ne me sens plus là
Moi-même
Je suis le quinze de la
Onzième
Le soleil filtre à travers
Les vitres
Ses rayons font sur mes vers
Les pitres
Et dansent sur le papier
J’écoute
Quelqu’un qui frappe du pied
La voûte
III
Dans une fosse comme un ours
Chaque matin je me promène
Tournons tournons tournons toujours
Le ciel est bleu comme une chaîne
Dans une fosse comme un ours
Chaque matin je me promène
Dans la cellule d’à côté
On y fait couler la fontaine
Avec les clefs qu’il fait tinter
Que le geôlier aille et revienne
Dans la cellule d’à côté
On y fait couler la fontaine
IV
Que je m’ennuie entre ces murs tout nus
Et peints de couleurs pâles
Une mouche sur le papier à pas menus
Parcourt mes lignes inégales
Que deviendrai-je ô Dieu qui connais ma douleur
Toi qui me l’as donnée
Prends en pitié mes yeux sans larmes ma pâleur
Le bruit de ma chaise enchaînée
Et tous ces pauvres cœurs battant dans la prison
L’Amour qui m’accompagne
Prends en pitié surtout ma débile raison
Et ce désespoir qui la gagne
V
Que lentement passent les heures
Comme passe un enterrement
Tu pleureras l’heure où tu pleures
Qui passera trop vitement
Comme passent toutes les heures
VI
J’écoute les bruits de la ville
Et prisonnier sans horizon
Je ne vois rien qu’un ciel hostile
Et les murs nus de ma prison
Le jour s’en va voici que brûle
Une lampe dans la prison
Nous sommes seuls dans ma cellule
Belle clarté Chère raison

Dịch

I
Trước khi vào xà lim
Đã phải trần như nhộng
Tiếng gào thê thảm vọng
Sao thế này Guy-ôm
Lada xuống mộ rồi
Mà lên được còn tôi
Vĩnh biệt vĩnh biệt điệu nhảy vòng thôi
Ôi tuổi xanh ta ôi bao cô gái
II
Ở đây rồi chẳng nhận ra
Cả mình nốt
Chỉ còn con số mười lăm
Xà lim mười một
Chùm tia sáng mặt trời
Lọc qua kính
Vẽ trên mấy dòng thơ tôi
Hình con rối
Rồi vờn trên trang giấy
Tôi lắng nghe
Tiếng chân của ai đấy
Nện trên đầu
III
Như gấu sa đáy hố
Sáng sáng tôi dạo quanh
Đi vòng đi vòng đi vòng mãi
Mảnh trời sợi xiềng xanh
Như gấu sa đáy hố
Sáng sáng tôi dạo quanh
Trong xà lim kề bên
Rào rào vòi nước xả
Leng keng chùm chìa khoá
Cai ngục cứ xuống lên
Trong xà lim kề bên
Rào rào vòi nước xả
IV
Buồn tẻ thay bốn bức tường trần trụi này
Quét toàn màu tai tái
Chú ruồi bò ung dung trên trang giấy
Theo những dòng thơ tôi chỗ ngắn chỗ dài
Sẽ ra sao đây lạy Chúa Người biết rõ nỗi đau
Mà chính Người đã ban cho tôi đó
Người hãy đoái thương đôi mắt ráo khô làn da tôi tái mét
Tiếng sợi xích cột ghế ngồi kêu loảng xoảng
Và mọi con tim tội nghiệp vẫn đập đều nơi ngục tối
Tình yêu vẫn ấp ủ bên tôi
Người hãy thương nhiều nơi tôi lý trí đã suy yếu lắm rồi
Cùng nỗi tuyệt vọng này đang lấn tới
V
Chậm lại hỡi thời gian
Bước đi như đám tang
Ngươi sẽ khóc thời gian mà ngươi đang khóc
Thời gian sẽ trôi nhanh
Như trôi đi mọi giờ mọi khắc
VI
Tôi lắng nghe tiếng thành phố rậm rịch
Là tù nhân không thấy chân trời
Tôi chỉ thấy một bầu trời thù nghịch
Và dãy tường trần trụi của lao tù
Ngày qua đi kìa đã cháy sáng lên
Một ngọn đèn nơi ngục thất
Hai chúng tôi đơn chiếc trong xà lim
Ánh sáng tuyệt vời Lý trí thiết thân

Ra đi Le départ

Et leurs visages étaient pâles
Et leurs sanglots s’étaient brisés
Comme la neige aux purs pétales
Ou bien tes mains sur mes baisers
Tombaient les feuilles automnales

Dịch

Và gương mặt họ xanh xao
Và tiếng khóc vỡ vì ly biệt
Và những chiếc lá thu rơi
Như những cánh hoa trong suối của tuyết
Như bàn tay em trong đôi môi của tôi.

Tôi biết chăng tình tôi

Sais-je, mon cher amour, si tu m’aimes encore ?
Les trompettes du soir gémissent lentement
Ta photo devant moi, chère Lou, je t’adore
Et tu sembles sourire encore à ton amant.
J’ignore tout de toi ! Qu’es-tu donc devenue ?
Es-tu morte, es-tu vive et l’as-tu renié
L’amour que tu promis un jour au canonnier.
Que je voudrais mourir sur la rive inconnue !
Ô Lou, ma grande peine, ô Lou, mon coeur brisé,
Comme un doux son de cor ta voix sonne et résonne,
Ton regard attendri dont je me suis grisé
Je le revois lointain, lointain, et qui s’étonne
Je baise tes cheveux, mon unique trésor,
Et qui de ton amour firent le premier gage
Ta voix, mon souvenir, s’éloigne, ô son du cor.
Ma vie est un beau livre et l’on tourne la page
Adieu mon Lou mes larmes tombent
Je ne te reverrai plus jamais
Entre nous deux se dresse l’Ombre
Et souviens-toi parfois du temps où tu m’aimais
L’heure Pleure Trois Fois.

Dịch

Em ơi còn có yêu anh
Tiếng kèn rền rĩ âm thanh về chiều
Hình em còn đó em yêu
Vẫn như mím miệng mà trêu cợt người
Biết em còn mất trên đời?
Hay em đã phụ những lới ước xưa
Với người pháo thủ ngẩn ngơ
Ðã từng muốn chết trên bờ sông xa.
Em là nỗi khổ lòng ta,
Em là tim vỡ em là tiếng êm
Mắt em say đắm dịu hiền
Anh nhìn xa quá mắt em ngỡ ngàng
Anh hôn món tóc, ngọc vàng
Của anh đó, tóc em làm của tin
Xa dần kỷ niệm anh tìm
Tiếng em êm dịu tiếng kèn dần xa.
Ðời anh em mở chói loà
Trang đời đẹp ấy lật qua mất rồi
Em anh thôi vĩnh biệt thôi
Thấy đâu hình bóng, lệ rơi mắt nhoà
Bóng đêm chen giữa đôi ta
Mai đây em có bao giờ nhớ chăng?
Xin em thỉnh thoảng nhớ thầm
Cái thời em đã có lần yêu anh
Khắc giờ cũng khóc cho tình.

Trận gió đêm Le vent nocturne

Oh! les cimes des pins grincent en se heurtant
Et l’on entend aussi se lamenter l’autan
Et du fleuve prochain à grand’voix triomphales
Les elfes rire au vent ou corner aux rafales
Attys Attys Attys charmant et débraillé
C’est ton nom qu’en la nuit les elfes ont raillé
Parce qu’un de tes pins s’abat au vent gothique
La forêt fuit au loin comme une armée antique
Dont les lances ô pins s’agitent au tournant
Les villages éteints méditent maintenant
Comme les vierges les vieillards et les poètes
Et ne s’éveilleront au pas de nul venant
Ni quand sur leurs pigeons fondront les gypaètes

Dịch

Ôi! những ngọn thông va nhau kêu kèn kẹt
Trận cuồng phong cũng không ngớt thở than
Và từ mé sông bên tiếng các thần đắc thắng cười vang
Hoặc hú lên từng hồi theo cơn gió giật
Attys Attys Attys có duyên mà nhếch nhác
Các thần trong đêm đã chế nhạo chính tên Người
Vì một cây thông của Người bị gió gô-tích quật đổ
Rừng chạy trốn phía xa tựa như một đội quân thời cổ
Khua giáo dài nơi đường ngoặt thông ơi
Làng mạc tối sầm suy tưởng lúc này đây
Tựa trinh nữ cụ già và thi sĩ
Sẽ không hề sực giấc bởi bất cứ bước chân ai
Dù chim ưng có lao xuống vồ bồ câu cũng thế

Trong hồ mắt em sâu thẳm 

Au lac de tes yeux très profond
Mon pauvre cœur se noie et fond
Là le défont
Dans l’eau d’amour et de folie
Souvenir et Mélancolie

Dịch

Trong hồ mắt em sâu thẳm
Trái tim anh chìm đắm
Trong lòng nước của tình yêu và điên cuồng
Trái tim anh quỵ hẳn
Vì Kỷ niệm với U buồn

Tuyết trắng La blanche neige

Les anges les anges dans le ciel
L’un est vêtu en officier
L’un est vêtu en cuisinier
Et les autres chantent
Bel officier couleur du ciel
Le doux printemps longtemps après Noël
Te médaillera d’un beau soleil
D’un beau soleil
Le cuisinier plume les oies
Ah! tombe neige
Tombe et que n’ai-je
Ma bien-aimée entre mes bras

Dịch

Trên trời thiên thần thiên thần
Một vị vận quân phục sĩ quan
Một vị mặc áo quần nhà bếp
Các vị khác ca hát
Này ngài sĩ quan điển trai sáng màu trời
Lễ Giáng Sinh qua lâu rồi
Chúa xuân hiền dịu
Sẽ gắng thưởng ngài ông mặt trời thật đẹp
Một mặt trời thật đẹp
Chàng đầu bếp đang làm lông ngỗng
A! mời tuyết xuống đây
Xuống đây để cho anh có
Em thân yêu trong vòng tay

Vì em đã nói với anh về hư đốn

Tu m’as parlé de vice en ta lettre d’hier
Le vice n’entre pas dans les amours sublimes
Il n’est pas plus qu’un grain de sable dans la mer
Un seul grain descendant dans les glauques abîmes
Nous pouvons faire agir l’imagination
Faire danser nos sens sur les débris du monde
Nous énerver jusqu’à l’exaspération
Ou vautrer nos deux corps dans une fange immonde
Et liés l’un à l’autre en une étreinte unique
Nous pouvons défier la mort et son destin
Quand nos dents claqueront en claquement panique
Nous pouvons appeler soir ce qu’on dit matin
Tu peux déifier ma volonté sauvage
Je peux me prosterner comme vers un autel
Devant ta croupe qu’ensanglantera ma rage
Nos amours resteront pures comme un beau ciel
Qu’importe qu’essoufflés muets bouches ouvertes
Ainsi que deux canons tombés de leur affût
Brisés de trop s’aimer nos corps restent inertes
Notre amour restera bien toujours ce qu’il fut
Ennoblissons mon cœur l’imagination
La pauvre humanité bien souvent n’en a guère
Le vice en tout cela n’est qu’une illusion
Qui ne trompe jamais que les âmes vulgaires

Dịch

Trong thư hôm qua em đã nói với anh về hư đốn
Hư đốn không bước vào những mối tình cao thượng
Nó không hơn một hạt cát trong biển khơi
Đáy vực xanh chỉ một hạt xuống thôi
Chúng mình có thể huy động trí tưởng tượng
Làm nhảy múa giác quan trên đổ vỡ của thế gian
Làm căng thẳng thần kinh đến cực điểm
Hay đầm hai tấm thân ngập ngụa trong bùn
Và buộc chặt vào nhau trong cái ôm duy nhất
Chúng mình có thể thách tử thần
Khi kinh hoảng răng mình va lập cập
Thì bình minh mình có thể gọi hoàng hôn
Em có thể thần thánh hoá ý chí hoang dại của anh
Anh có thể như hướng về bàn thờ quỳ gối
Trước cặp mông của em mà sự cuồng nhiệt của anh nhuộm máu
Tình ta vẫn sẽ tinh ròng như một trời xanh
Mặc cho hết hơi lặng câm há miệng
Y như hai khẩu pháo lăn kềnh
Kiệt sức vì yêu xác thân bất động
Tình mình thế nào vẫn thế vẹn nguyên
Chúng mình hãy làm cao quý tim anh
Nhân loại đáng thương thật nghèo tưởng tượng
Nên hư đốn chẳng qua chỉ là ảo tưởng
Chỉ lừa được những tâm hồn tầm tầm

Guillaume Apollinaire là một thi sĩ nổi tiếng vang danh cùng một chùm thơ hay đi vào lòng bạn đọc. Qua bài viết này chúng ta thêm phần hiểu phong cách thơ của ông cùng những ý nghĩa cao cả nhất. Mời các bạn đón xem bài viết và cảm nhận nội dung thơ ông nhé!

Xem Thêm: Nhà thơ Guillaume Apollinaire và những áng thơ vang danh nhất phần 1