Tập thơ: Thanh Hiên thi tập 清軒詩集 – Nguyễn Du P1

Thanh Hiên thi tập là tập thơ chữ Hán nổi tiếng đầu tiên của Nguyễn Du. Tập thơ này Nguyễn Du làm trong thời kỳ còn hàn vi và có thể phân chia ra làm ba giai đoạn:
1. Mười năm gió bụi (1786-1795) là thời gian ông lẩn trốn ở Quỳnh Côi.
2. Dưới chân núi Hồng (1796-1802), về ẩn ở quê nhà.
3. Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804).
Khác với tập thơ Bắc hành tạp lục đây là những bài thơ viết về cảm nghĩ của nhà thơ Nguyễn Du với những cảnh vật thiên nhiên, địa phận ông đi ngang qua, về nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, phần Thanh Hiên thi tập nói về chính cá nhân ông và những tình cảm của ông trong hoàn cảnh đương thời.

Giai đoạn 1: Mười năm gió bụi (1786-1795)

Tập thơ Mười năm gió bụi nằm trong Tập thơ lớn được nguyễn Du sáng tác vào khoảng thời gian từ (1786-1795) đây là thời kì ông lẩn trốn ở Quỳnh Côi.

Sơn cư mạn hứng 山居漫興 • Ở núi cảm hứng

山居漫興
南去長安千里餘,
群峰深處野人居。
柴門晝靜山雲閉,
藥圃春寒隴竹疏。
一片鄉心蟾影下,
經年別淚雁聲初。
故鄉弟妹音耗絕,
不見平安一紙書。
Sơn cư mạn hứng
Nam khứ Trường An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
Dịch nghĩa
Cách Trường An nghìn dặm về phía nam,
Có một người quê mùa ở trong núi sâu.
Ban ngày yên tĩnh, mây núi che kín cổng tre.
Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa thớt.
Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương.
Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm.
Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu bặt hắn tin tức,
Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay không?

Bất mị 不寐 • Không ngủ

不寐
不寐聽寒更,
寒更不肯盡。
關山引夢長,
砧杵催寒近。
廢灶聚蝦蟆,
深堂出蚯蚓。
暗誦天問章,
天高何處問?
Bất mị
Bất mị thính hàn canh,
Hàn canh bất khẳng tận.
Quan san dẫn mộng trường,
Châm chử thôi hàn cận.
Phế táo tụ hà ma,
Thâm đường xuất khâu dận.
Ám tụng “Thiên vấn” chương,
Thiên cao hà xứ vấn?
Dịch nghĩa
Không ngủ nằm nghe tiếng trống canh trong đêm lạnh.
Trong đêm lạnh, trống canh điểm không thôi.
Quan san làm giấc mộng dài thêm,
Tiếng chày nện vải càng giục hơi lạnh đến gần.
Cóc nhái tụ họp quanh bếp,
Giun từ góc sâu trong nhà bò ra.
Thầm đọc bài ca hỏi trời,
Trời cao, biết đâu mà hỏi?

U cư kỳ 1 幽居其一 • Ở nơi u tịch kỳ 1

幽居其一
桃花桃葉落紛紛,
門掩斜扉一院貧。
住久頓忘身是客,
年深更覺老隨身。
異鄉養拙初防俗,
亂世全生久畏人。
流落白頭成底事,
西風吹倒小烏巾。
U cư kỳ 1
Đào hoa, đào diệp lạc phân phân,
Môn yểm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách,
Niên thâm cánh giác lão tuỳ thân.
Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu uý nhân.
Lưu lạc bạch đầu thành để sự,
Tây phong xuy đảo tiểu ô cân.
Dịch nghĩa
Hoa đào, lá đào rụng lả tả.
Cánh cổng xiêu vẹo, mái nhà bần bạc.
Trú ngụ ở đây lâu ngày, quên bẵng mình là khách,
Trải qua nhiều năm tháng, biết tuổi già đã đến rồi!
Ở nơi đất khách quê người, đành giả vụng, đề phòng động đến kẻ tục,
Sống buổi loạn lạc, muốn giữ toàn tính mệnh, thấy ai cũng sợ.
Xiêu giạt đến bạc đầu mà nào được việc gì đâu!
Ngọn gió tây thổi rơi chiếc khăn đen nhỏ!

U cư kỳ 2 幽居其二 • Ở nơi u tịch kỳ 2

幽居其二
十載風塵去國賒,
蕭蕭白髮寄人家。
長途日暮新遊少,
一室春寒舊病多。
壞壁月明蟠蜥蜴,
荒池水涸出蝦蟆。
行人莫誦登樓賦,
強半春光在海涯。
U cư kỳ 2
Thập tải phong trần khứ quốc xa,
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia.
Trường đồ nhật mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa.
Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch,
Hoang trì thuỷ hạc xuất hà ma.
Hành nhân mạc tụng “Đăng lâu phú”,
Cưỡng bán xuân quang tại hải nha (nhai).
Dịch nghĩa
Bỏ quê hương đi suốt mười năm trong gió bụi,
Đầu bạc lốm đốm, còn phải ăn nhờ ở đậu,
Cảnh hiện nay của ta là cảnh đường đi còn dài mà trời đã về chiều, lại không tìm ra bạn mới!
Giữa mùa xuân, nhà lạnh ngắt, bệnh cũ tái phát.
Dưới ánh trăng, thạch sùng leo trên vách nát.
Chiếc ao hoang, nước cạn khô, chỉ còn thấy ếch nhái.
Ai xa quê hương chớ đọc bài phú Đăng lâu.
Quá nửa đời người, ta còn ở nơi chân trời góc biển.

Tự thán kỳ 1 自嘆其一 • Than thân kỳ 1

自嘆其一
生未成名身已衰,
蕭蕭白髮暮風吹。
性成鶴脛何容斷?
命等鴻毛不自知。
天地與人屯骨相,
春秋還汝老鬚眉。
斷蓬一片西風急,
畢竟飄零何處歸?
Tự thán kỳ 1
Sinh vị thành danh nhân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.
Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn?
Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri.
Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng,
Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi.
Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp,
Tất cánh phiêu linh hà xứ quy?
Dịch nghĩa
Chưa làm nên danh vọng gì, mình đã suy yếu,
Mái tóc cũng lốm đốm bạc, phất phơ trước ngọn gió chiều.
Tính ta vẫn không thay đổi, giống như chân chim hạc, có thể cắt ngắn được sao ?
Mệnh ta thì nhẹ tựa lông hồng, mà nào ta có biết!
Trời đất phú cho anh bộ mày râu bạc trắng,
Mùa xuân, mùa thu qua đi lại khiến ta thêm nhiều râu tóc.
Thân nay như ngọn cỏ bồng lìa gốc, trước luồng gió tây thổi mạnh,
Không biết cuối cùng sẽ giạt đến chốn nào ?

Tự thán kỳ 2 自嘆其二 • Than thân kỳ 2

自嘆其二
三十行庚六尺身,
聰明穿鑿損天真。
本無文字能憎命,
何事乾坤錯妒人。
書劍無成生計促,
春秋代序白頭新。
何能落髮歸林去,
臥聽松風響半雲。
Tự thán kỳ 2
Tam thập hành canh lục xích thân,
Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân.
Bản vô năng tự năng tăng mệmh,
Hà sự càn khôn thác đố nhân?
Thư kiếm vô thành sinh kế xúc,
Xuân thu đại tự bạch đầu tân.
Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngoạ thính tùng phong hưởng bán vân!
Dịch nghĩa
Tấm thân sáu thước, tuổi đã ba mươi.
Vì thông minh xuyên tạc mà hại đến thiên chân.
Vốn chẳng có văn chương nào ghét số mệnh,
Làm sao trời đất lại ghét lầm người?
Văn võ không thành sinh kế quẫn bách.
Hết xuân lại thu, đầu cứ bạc thêm.
Ước gì có thể gọt tóc vào rừng,
Nằm nghe tiếng thông reo lưng chừng mây!

Bất mị 不寐 • Không ngủ

不寐
不寐聽寒更,
寒更不肯盡。
關山引夢長,
砧杵催寒近。
廢灶聚蝦蟆,
深堂出蚯蚓。
暗誦天問章,
天高何處問?
Bất mị
Bất mị thính hàn canh,
Hàn canh bất khẳng tận.
Quan san dẫn mộng trường,
Châm chử thôi hàn cận.
Phế táo tụ hà ma,
Thâm đường xuất khâu dận.
Ám tụng “Thiên vấn” chương,
Thiên cao hà xứ vấn?
Dịch nghĩa
Không ngủ nằm nghe tiếng trống canh trong đêm lạnh.
Trong đêm lạnh, trống canh điểm không thôi.
Quan san làm giấc mộng dài thêm,
Tiếng chày nện vải càng giục hơi lạnh đến gần.
Cóc nhái tụ họp quanh bếp,
Giun từ góc sâu trong nhà bò ra.
Thầm đọc bài ca hỏi trời,
Trời cao, biết đâu mà hỏi?

Quỳnh Hải nguyên tiêu 瓊海元宵 Rằm tháng riêng ở Quỳnh Hải瓊海元宵

元夜空庭月滿天,
依依不改舊嬋娟。
一天春興誰家落,
萬里瓊州此夜圓。
鴻嶺無家兄弟散,
白頭多恨歲時遷。
窮途憐汝遙相見,
海角天涯三十年。
Quỳnh Hải nguyên tiêu
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Dịch nghĩa
Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời.
Vầng trăng vẫn đẹp như xưa, không hề thay đổi.
Chẳng biết nhà ai được hưởng thú vui xuân đêm nay
Ở đất Quỳnh Châu ngoài muôn dặm này?
Còn ta thì ở quê hương Hồng Lĩnh, chẳng còn nhà cửa, anh em cũng đều tan tác cả.
Đầu đã bạc, càng giận cho ngày tháng trôi mau.
Cảm động biết bao, giữa lúc cùng đường, tuổi đã ba mươi,
Đang ở nơi chân trời góc biển, mà trăng vẫn từ xa đến với ta.
Quỳnh Hải tức Quỳnh Châu thuộc trấn Sơn Nam xưa, nay là huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê vợ của Nguyễn Du. Năm 1786, sau khi Nguyễn Khản thất lộc, Nguyễn Du lánh nạn về Quỳnh Côi ở nhà anh vơ là Đoàn Nguyễn Tuấn ở xã Hải An (lúc này Lê Chiêu Thống chưa chạy sang Trung Quốc).

Xuân nhật ngẫu hứng 春日偶興 • Ngẫu hứng ngày xuân

春日偶興
患氣經時戶不開,
逡巡寒暑故相催。
他鄉人與去年別,
瓊海春從何處來。
南浦傷心看綠草,
東皇生意漏寒梅。
鄰翁奔走村前廟,
斗酒雙柑醉不回。
Xuân nhật ngẫu hứng
Hoạn khí kinh thì hộ bất khai,
Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt,
Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai ?
Nam phố thương tâm khan lục thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai.
Lân ông bôn tẩu thôn thiền miếu,
Đấu tửu song cam tuý bất hồi.
Dịch nghĩa
Bấy lâu khí trời xấu, cửa đóng kín,
Quanh quẩn hết mùa nực lại đến mùa rét.
Ta thì phải giã từ năm cũ ở đất khách quê người?
Chẳng hay xuân từ đâu đến Quỳnh Hải,
Đau lòng nhìn bãi cỏ xanh bên bờ nam,
Và thấy chúa xuân để lộ sinh ý trên cánh hoa mai lạnh.
Có ông già hàng xóm, tay cầm nậm rượu và hai quả cam đi về phía miếu đầu thôn,
Chắc là đang say, không thấy trở về.

Xuân nhật ngẫu hứng 春日偶興 • Ngẫu hứng ngày xuân

春日偶興
患氣經時戶不開,
逡巡寒暑故相催。
他鄉人與去年別,
瓊海春從何處來。
南浦傷心看綠草,
東皇生意漏寒梅。
鄰翁奔走村前廟,
斗酒雙柑醉不回。
Xuân nhật ngẫu hứng
Hoạn khí kinh thì hộ bất khai,
Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt,
Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai ?
Nam phố thương tâm khan lục thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai.
Lân ông bôn tẩu thôn thiền miếu,
Đấu tửu song cam tuý bất hồi.
Dịch nghĩa
Bấy lâu khí trời xấu, cửa đóng kín,
Quanh quẩn hết mùa nực lại đến mùa rét.
Ta thì phải giã từ năm cũ ở đất khách quê người?
Chẳng hay xuân từ đâu đến Quỳnh Hải,
Đau lòng nhìn bãi cỏ xanh bên bờ nam,
Và thấy chúa xuân để lộ sinh ý trên cánh hoa mai lạnh.
Có ông già hàng xóm, tay cầm nậm rượu và hai quả cam đi về phía miếu đầu thôn,
Chắc là đang say, không thấy trở về.

Khất thực 乞食 • Xin ăn

乞食
嶒崚長劍倚青天,
輾轉泥塗三十年。
文字何曾為我用,
饑寒不覺受人憐。
Khất thực
Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên,
Triển chuyển nê đồ tam thập niên.
Văn tự hà tằng vi ngã dụng ?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!
Dịch nghĩa
Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh,
Lăn lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm nay.
Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta ?
Đâu ngờ phải đói rét để người thương

Xuân dạ 春夜 • Đêm xuân

春夜
黑夜韶光何處尋,
小窗開處柳陰陰。
江湖病到經時久,
風雨春隨一夜深。
羈旅多年燈下淚,
家鄉千里月中心。
南臺村外龍江水,
一片寒聲送古今。
Xuân dạ
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm.
Giang hồ bệnh đáo kinh thì cửu,
Phong vũ xuân tuỳ nhất dạ thâm.
Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm.
Nam Đài thôn ngoại Long giang thuỷ,
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kinh).
Dịch nghĩa
Trời tối đen, tìm đâu thấy cảnh xuân tươi sáng?
Qua khuôn cửa sổ nhỏ, chỉ thấy bóng liễu âm u.
Trong bước giang hồ, lại phải nằm bệnh lâu ngày,
Cuộc đời có khác gì vẻ xuân theo mưa gió chìm trong bóng đêm.
Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới bóng đèn mà rơi lệ.
Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng.
Ở đó, phía ngoài thôn Nam Đài, tiếng sóng lòng sông Long Giang
Vẫn lạnh lùng tiễn đưa kim cổ.

Thu chí (II) 秋至 • Thu đến (II)

秋至
四時好景無多日,
拋擲如梭喚不回。
千里赤身為客久,
一庭黃葉送秋來。
簾垂小閣西風動,
雪暗窮村曉角哀。
惆悵流光催白髮,
一生幽思未曾開。
Thu chí (II)
Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật,
Phao trịch như thoa hoán bất hối.
Thiên lý xích thân vi khách cửu,
Nhất đình hoàng diệp tống thu lai.
Liêm thuỳ tiểu các tây phong động,
Tuyết ám cùng thôn hiểu giốc ai.
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát,
Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
Dịch nghĩa
Trong bốn mùa, không được mấy ngày cảnh đẹp.
Thời gian vun vút trôi qua như thoi đưa, gọi không trở lại.
Trơ trọi một mình ngoài ngàn dặm, nơi đất khách đã lâu ngày,
Giờ đây một sân đầy lá vàng thu đưa đến.
Nọng gió tây lay động bức mành trước gác nhỏ,
Nơi thôn xóm, sương xuống mịt mù, tiếng tù và buổi sớm nghe đến não nùng!
Thời gian thấm thoắt làm cho mái tóc chóng bạc.
Nghĩ mà ngậm ngùi, suốt đời ta chưa hề gỡ được mối u sầu.

Thu dạ kỳ 1 秋夜其一 • Đêm thu kỳ 1

秋夜其一
繁星歷歷露如銀,
東壁寒蟲悲更辛。
萬里秋聲催落葉,
一天寒色掃浮雲。
老來白髮可憐汝,
住久青山未厭人。
最是天涯倦遊客,
窮年臥病桂江津。
Thu dạ kỳ 1
Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân,
Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp,
Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân
Lão lai bạch phát khả liên nhữ
Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân
Tối thị thiên nhai quyện du khách
Cùng niên ngoạ bệnh Quế giang tân.
Dịch nghĩa
Sao dày đặc, trông rõ mồm một, sương trắng tựa bạc,
Vách phía đông, dế gặp lạnh, kêu buồn thảm.
Suốt muôn dặm, tiếng thu giục lá cây rụng,
Bầu trời lạnh ngắt, không một vầng mây.
Đến tuổi già, mái tóc bạc, trông mà thương cho anh!
Ở mão nơi đấy, thế mà rặng núi xanh kia vẫn chưa chán người.
Buồn nhất là kẻ du khách ở nơi chân trời đã mỏi mệt,
Lại suốt năm đau ốm, nằm trên bến Quế giang này.

Thu dạ kỳ 2 秋夜其二 • Đêm thu kỳ 2

秋夜其二
白露為霜秋氣深,
江城草木共蕭森。
剪燈獨照初長夜,
握髮經懷末人心。
千里江山頻悵望,
四時煙景獨沉吟。
早寒已覺無衣苦,
何處空閨催暮砧。
Thu dạ kỳ 2
Bạch lộ vi sương thu khí thâm,
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm.
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ,
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm.
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng,
Tứ thì yên cảnh độc trầm ngâm.
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
Hà xứ không khuê thôi mộ châm?
Dịch nghĩa
Móc trắng thành sương, hơi thu đã già.
Cây cỏ quanh thành bên sông, trông đến tiêu điều!
Khêu ngọn đèn cho chiến rọi vào cảnh đêm dài mới bắt đầu.
Búi tóc mà lo cho chí nguyện những ngày tàn tạ.
Non sông ngàn dặm cứ nhìn là thấy buồn.
Phong cảnh bốn mùa, riêng mình ngậm ngùi.
Mới rét, đã khổ vì không áo,
Mà hơi đâu tiếng đập vải của người khuê phụ rộn rã trong chiều hôm?

Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy 送阮士有南歸 • Tống bạn Nguyễn Sĩ về nam

送阮士有南歸
南山有鳥含精華,
飛去飛來輕網羅。
鴻嶺有人來做主,
白頭無賴不還家。
生平文彩殘籠鳳,
浮世功名走壑蛇。
歸去故鄉好風月,
午窗無夢到天涯。
Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy
Nam Sơn hữu điểu hàm tinh hoa,
Phi khứ phi lai khinh võng la.
Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ,
Bạch đầu vô lại bất hoàn gia.
Sinh bình văn thái tàn lung phượng,
Phù thế công danh tẩu hác xà.
Quy khứ cố hương hảo phong nguyệt,
Ngọ song vô mộng đáo thiên nha (nhai).
Dịch nghĩa
Núi Nam có con chim ngậm tinh hoa,
Bay đi bay về xem thường lưới bẫy.
Từ nay Hồng Lĩnh đã có người về làm chủ,
Còn ta đầu bạc, chẳng nên trò trống gì, mà vẫn không về nhà.
Cái dáng nho nhã bình sinh nay xơ xác như con phượng nhốt trong lồng.
Công danh thì như con rắn chui tuột vào hang lúc nào rồi.
Bạn trở về quê hương tha hồ hưởng thú trăng trong gió mát,
Trưa nằm ngủ trước cửa sổ, chẳng mơ màng đến chuyện phương trời xa.

Lưu biệt Nguyễn đại lang 留別阮大郎 • Bài thơ lưu lại khi cùng anh Nguyễn chia tay

留別阮大郎
西風蕭颯拂高林,
傾盡離杯話夜深。
亂世男兒羞對劍,
他鄉朋友重分襟。
高山流水無人識,
海角天涯何處尋?
留取江南一片月,
夜來常照兩人心。
Lưu biệt Nguyễn đại lang
Tây phong tiêu táp phất cao lâm,
Khuynh tận ly bôi ngoại dạ thâm.
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm,
Tha hương bằng hữu trọng phân khâm.
“Cao sơn lưu thuỷ” vô nhân thức,
Hải giác thiên nhai hà xứ tầm?
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt,
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhâm tâm.
Dịch nghĩa
Gió tây hiu hắt thổi qua rừng cây cao.
Hãy cạn chén rượu biệt ly này rồi cùng nhau nói chuyện đến khuya.
Trai thời loạn nhìn thanh kiếm mà thẹn.
Chia tay bạn, ở đất khách, càng thấy bùi ngùi.
Khúc đàn cao sơn lưu thuỷ, ai người hiểu?
Rồi đây biết tìm anh nơi đâu ở góc bể chân trời?
Chỉ còn lại mảnh trăng phía nam sông
Đêm đêm soi chung tấm lòng hai ta.

Nguyễn đại lang tức Nguyễn Đăng Tiến (Cai Gia), anh kết nghĩa của Nguyễn Du.

Hoạ Hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân đăng trình lưu biệt bắc thành chư hữu” chi tác 和海翁段阮俊「甲寅奉命入富春京登程留別北城諸友」之作 • Hoạ vần bài thơ “Năm Giáp Dần (1794) vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường, lưu biệt các bạn ở bắc thành” của Hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn

和海翁段阮俊「甲寅奉命入富春京登程留別北城諸友」之作
橫山山外嶺南程,
琴劍相隨上玉京。
兔髓未完新大藥,
豹皮仍累舊浮名。
滄溟水引杯中綠,
故國蟾隨馬後明。
此去家兄如見問,
窮途白髮正星星。
Hoạ Hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân đăng trình lưu biệt bắc thành chư hữu” chi tác
Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình,
Cầm kiếm tương tuỳ thướng ngọc kinh.
Thố tuỷ vị hoàn tân đại dược,
Báo bì nhưng luỵ cựu phù danh.
Thương minh thuỷ dẫn bôi trung lục,
Cố quốc thiềm tuỳ mã hậu minh.
Thử khứ gia huynh như kiến vấn,
Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh.
Dịch nghĩa
Bên kia dãy núi Hoành Sơn, ông lên đường đi vào phía nam,
Mang theo gươm đàn vào Kinh.
Ông lấy tuỷ con thỏ chế vị thuốc tiên chưa xong,
Thì đã lại mang luỵ vì danh hão, như con báo mang luỵ vì cái lốt da.
Nước biển ánh vào chén rượu màu xanh biếc,
Mảnh trăng quê hương dõi theo vó ngựa.
Lần nay ông vào, gặp anh tôi có hỏi,
Nhờ nói lại rằng tôi đang ở bước đường cùng, và tóc đã lốm đốm bạc.
Trích “Hải Ông tập”.

Bát muộn 撥悶 • Xua nỗi buồn

撥悶
十載塵埃暗玉除,
百年城府半荒墟。
么麼虫鳥高飛盡,
滓濊乾坤血戰餘。
桑梓兵前千里淚,
親朋燈下數行書。
魚龍冷落閒秋夜,
百種幽懷未一攄。
Bát muộn
Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư.
Yêu ma trùng điểu cao phi tận,
Trĩ uế càn khôn huyết chiến dư.
Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư.
Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.
Dịch nghĩa
Cái bụi che mờ thềm ngọc mười năm nay.
Thành phủ xây dựng trăm năm trước, một nửa thành gò hoang,
Các loài chim nhỏ bé đều bay lên cao hết.
Sau các cuộc huyết chiến, cõi càn khôn trở nên nhơ nhớp.
Quê nhà trong cơn binh lửa hẳn đã tiêu điều,
Ở xa muôn dặm nghĩ đến mà rơi nước mắt.
Bạn bè, bà con chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn.
Đêm thu vắng, cá rồng lặng lẽ, trăm mối u hoài chưa dẹp được chút nào!

Trệ khách 滯客 • Người khách bê trệ

滯客
滯客淹留南海中,
寂寥良夜與誰同。
歸鴻悲動天河水,
戍鼓寒侵夏夜風。
人到窮途無好夢,
天回苦海促浮蹤。
風塵隊裡留皮骨,
客枕蕭蕭兩鬢蓬。
Trệ khách
Trệ khách yêm lưu Nam Hải trung,
Tịch liêu lương dạ dữ thuỳ đồng?
Quy hồng bi động thiên hà thuỷ,
Thú cổ hàn xâm hạ dạ phong.
Nhân đáo cùng đồ vô hảo mộng,
Thiên hồi khổ hải xúc phù tung.
Phong trần đội lý lưu bì cốt,
Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng.
Dịch nghĩa
Người khách bê trệ nằm bẹp mãi ở vùng biển nam.
Đêm đẹp vắng lặng, biết trò chuyện cùng ai?
Con chim hồng bay về, tiếng kêu bi thương vang động nước sông Ngân.
Tiếng trống cầm canh lạnh cả gió đêm hè.
Con người ta đến bước đường cùng không thể có mộng đẹp.
Trời d0ưa bể khổ lại giục gót phiêu lưu.
Trong đám người phong trần, mình để lại bộ xương bọc da,
Nằm nơi đất khách, hai mái tóc bạc loà xoà trên gối.

Mạn hứng kỳ 1 漫興其一 • Mạn hứng kỳ 1

漫興其一
百年身世委風塵,
旅食江津又海津。
高興久無黃閣夢,
虛名未放白頭人。
三春積病貧無藥,
卅載浮生患有身。
遙憶家鄉千里外,
澤車段馬愧東鄰。
Mạn hứng kỳ 1
Bách niên thân thế uỷ phong trần,
Lữ thực giang tân hựu hải tân.
Cao hứng cửu vô hoàng các mộng,
Hư danh vị phóng bạch đầu nhân.
Tam xuân tích bệnh bần vô dược,
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân.
Dao ức gia hương thiên lý ngoại,
Trạch xa đoạn mã quý đông lân.
Dịch nghĩa
Cuộc thế trăm năm phó mặc gió bụi,
Hết ăn nhờ ở miền sông lại ăn nhờ ở miền biển.
Đã lâu rồi, lúc cao hứng, không còn ấp ủ giấc mộng gác vàng nữa,
Nhưng hư danh nào đã buông tha kẻ bạc đầu này.
Suốt ba tháng xuân, ốm liên miên, nghèo đến nỗi không có tiền cắt chén thuốc.
Cuộc phù sinh ba mươi năm, có thân nên sinh mối lo.
Nhớ quê hương ngoài ngàn dặm, thấy người hàng xóm an nhàn ngồi xe con,
Xe xấu ngựa hèn kéo đi đủng đỉnh mà thẹn cho mình.

Mạn hứng kỳ 2 漫興 • Mạn hứng kỳ 2

漫興
行腳無根任轉蓬,
江南江北一囊空。
百年窮死文章裏,
六尺浮生天地中。
萬里黃冠將暮景,
一頭白髮散西風。
無窮今古傷心處,
依舊青山夕照紅。
Mạn hứng kỳ 2
Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng,
Giang nam giang bắc nhất nang không.
Bách niên cùng tử văn chương lý,
Lục xích phù sinh thiên địa trung.
Vạn lý hoàng quan tương mộ cảnh,
Nhất đầu bạch phát tản tây phong.
Vô cùng kim cổ thương tâm xứ,
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.
Dịch nghĩa
Chân không bén rễ, mặc cho trôi giạt như ngọn cỏ bồng.
Một chiếc đãy rỗng không, đi hết phía nam sông, lại phía bắc sông.
Cuộc đời trăm năm, kiết xác với văn chương.
Tấm thân sáu thước, lênh đênh trong vòng trời đất.
Đội mũ vàng, đi muôn dặm, cảnh đã xế chiều.
Mái tóc bạc lốm đốm, gió tây thổi tung.
Chuyện kim cổ gợi lại bao nhiêu điều thương tâm.
Dãy núi xanh đằng kia vẫn nhuốm bóng chiều hồng như cũ.

Đại nhân hí bút 代人戲筆 • Thay người khác, viết đùa

代人戲筆
錯落人家珥水新,
居然別占一城春。
東西橋閣兼天起,
胡漢衣冠特地分。
苜蓿秋驕金勒馬,
葡萄春醉玉樓人。
年年自得繁華勝,
不管南溟幾度塵。
Đại nhân hí bút
Thác lạc nhân gia Nhĩ thuỷ tân
Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân.
Đông tây kiều các kiêm thiên khởi,
Hồ Hán y quan đặc địa phân.
Mục túc thu kiêu kim lặc mã,
Bồ đào xuân tuý ngọc lâu nhân.
Niên niên tự đắc phồn hoa thắng,
Bất quản Nam minh kỷ độ trần.
Dịch nghĩa
Trên bãi sông Nhị, nhà cửa lô nhô,
Nghiễm nhiên chiếm cảnh xuân của cả một thành.
Phía đông và phía tây, cầu và nhà gác cao ngút trời.
Áo mũ chia hẳn người Hán với người Hồ.
Mùa thu, ngựa đeo giàm vàng kiêu hãnh ăn rau mục túc.
Ngày xuân, người trong lầu ngọc uống rượu bồ đào say mềm.
Tha hồ hưởng thú phồn hoa hết năm này đến năm khác,
Không quản bể Nam mấy phen nổi bụi.

Vị Hoàng doanh 渭潢營 • Quân doanh Vị Hoàng

渭潢營
渭潢江上渭潢營,
樓櫓參差接太青。
古渡斜陽看飲馬,
荒郊靜夜亂飛螢。
古今未見千年國,
形勢空留百戰名。
莫向清華村口望,
疊山不改舊時聲。
Vị Hoàng doanh
Vị Hoàng giang thượng Vị Hoàng doanh,
Lâu lỗ sâm si tiếp thái thanh.
Cổ độ tà dương khan ẩm mã,
Hoang giao tĩnh dạ loạn phi huỳnh.
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
Mạc hướng Thanh Hoa thôn khẩu vọng,
Điệp Sơn bất cải cựu thì thanh.
Dịch nghĩa
Cạnh sông Vị Hoàng có quân doanh Vị Hoàng,
Chòi gác nhấp nhô, cao tận trời.
Ở bến đò xưa, buổi chiều, trông thấy ngựa uống nước.
Giữa cánh đồng hoang, đêm thanh vắng, đóm bay lập loè.
Xưa nay chưa thấy triều đại nào đứng vững ngàn năm.
Nơi đây chỉ còn lại cái tiếng đã trải qua trăm trận đánh.
Thôi, đừng nhìn về phía Thanh Hoa nữa,
Dãy núi Điệp Sơn vẫn không thay đổi vè xanh tươi ngày trước.
Vị Hoàng là nhánh sông Hồng chảy qua thành Nam Định ra biển. Năm 1786, quân Tây Sơn theo biển vào sông đánh chiếm quân doanh Vị Hoàng rồi tiến ra chiếm Thăng Long.

Độ Phú Nông giang cảm tác 渡富農江感作 • Qua sông Phú Nông cảm tác

渡富農江感作
農水東流去,
滔滔更不回。
青山傷往事,
白髮復重來。
春日商船合,
西風古壘開。
遊人無限感,
芳草遍天涯。
Độ Phú Nông giang cảm tác
Nông thuỷ đông lưu khứ,
Thao thao cánh bất hồi.
Thanh sơn thương vãng sự,
Bạch phát phục trùng lai.
Xuân nhật thương thuyền hợp,
Tây phong cổ lũy khai.
Du nhân vô hạn cảm,
Phương thảo biến thiên nhai.
Dịch nghĩa
Nước sông Phú Nông chảy về đông,
Cuồn cuộn đi không trở lại.
Nhìn ngọn núi xanh mà thương chuyện cũ,
Nay ta đầu đã bạc mới trở lại chốn này.
Ngày xuân, thuyền buôn tấp nập,
Gió tây thổi thành cũ bỏ trống.
Khách du hành cảm tình chan chứa,
Cỏ thơm xanh rợn chân trời.

Hoàng Mai kiều vãn diểu 黃梅橋晚眺 • Chiều đứng trên cầu Hoàng Mai ngắm cảnh

黃梅橋晚眺
黃梅橋上夕陽紅,
黃梅橋下水流東。
元氣浮沉滄海外,
晴嵐吞吐亂流中。
短蓑漁枕孤舟月,
長笛童吹古徑風。
大地文章隨處見,
君心何事太匆匆。
Hoàng Mai kiều vãn diểu
Hoàng Mai kiều thượng, tịch dương hồng,
Hoàng Mai kiều hạ, thuỷ lưu đông.
Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại,
Tình lam thôn thổ loạn lưu trung.
Đoản thoa ngư chẩm cô chu nguyệt,
Trường địch đồng xuy cổ kính phong.
Đại địa văn chương tuỳ xứ kiến,
Quân tâm hà sự thái thông thông?
Dịch nghĩa
Trên cầu Hoàng Mai, bóng chiều nhuốm đỏ,
Dưới cầu Hoàng Mai, nước chảy về đông.
Nguyên khí nổi chìm ngoài biển rộng,
Khí núi toả từng đợt xuống dòng sông.
Dưới ánh trăng, ông chài nằm gối áo tơi trong chiếc thuyền lẻ loi,
Trên con đường mòn, em bé thổi sáo trước làn gió.
Mặt đất rộng lớn ở đâu cũng có cảnh đẹp,
Anh có việc gì mà phải vội vàng, chẳng dừng chân đứng ngắm

Dao vọng Càn Hải từ 遙望乾海祠 • Xa trông đền Càn Hải

遙望乾海祠
茫茫海水接天樞,
隱約孤祠接小洲。
古木寒連鳧渚暮,
晴煙青引海門秋。
號天相將丹心盡,
撫地瓊崖塊肉無。
笑爾明妃長出塞,
琵琶杯酒勸單于。
Dao vọng Càn Hải từ
Mang mang hải thuỷ tiếp thiên xu,
Ẩn ước cô từ xuất tiểu chu (châu).
Cổ mộc hàn liên phù chử mộ,
Tình yên thanh dẫn hải môn thu.
Hào thiên tướng tướng đan tâm tận,
Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô.
Tiếu nhĩ Minh Phi trường xuất tái,
Tỳ bà bồi tửu khuyến Thiền Vu.
Dịch nghĩa
Nước biển mênh mông tận chân trời,
Giữa bãi cát nhỏ thấp thoáng ngôi đền lẻ loi.
Buổi chiều hôm, chòm cổ thụ lạnh lẽo tiếp liền với bến sông đậu đầy chim âu,
Giữa mùa thu, làn khói lúc trời tạnh bay ra phía cửa biển.
Các bậc tướng văn, tướng võ đã dốc hết lòng son, bây giờ đành kêu trời,
Bà Dương Thái hậu khi đến đất Quỳnh Nhai, vỗ đất khóc, vì không còn ai dòng dõi họ Triệu nữa.
Cười cho bà Minh Phi đem thân ra ngoài cửa ải,
Phải gảy đàn tì bà, chuốc rượu mua vui cho chúa Thiền Vu!
Càn Hải tức đền Cờn ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, thờ vợ vua Tống Độ Tông. Bà khi đi lánh nạn bị đắm thuyền, được dân địa phương chôn cất và lập đền thờ.

Ký mộng 記夢 • Ghi lại giấc mộng

記夢
逝水日夜流,
遊子行未歸。
經年不相見,
何以慰相思。
夢中分明見,
尋我江之湄。
顏色是疇昔,
衣飭多參差。
始言苦病患,
繼言久別離。
帶泣不終語,
彷彿如隔帷。
平生不識路,
夢魂還是非。
疊山多虎廌,
藍水多蛟螭。
道路險且惡,
弱質將何依。
夢來孤燈清,
夢去寒風吹。
美人不相見,
柔情亂如絲。
空屋漏斜月,
照我單裳衣。
Ký mộng
Thệ thuỷ nhật dạ lưu,
Du tử hành vị quy.
Kinh niên bất tương kiến,
Hà dĩ ủy tương ti (tư).
Mộng trung phân minh kiến,
Tầm ngã giang chi mi.
Nhan sắc thị trù tích,
Y sức đa sâm si.
Thuỷ ngôn khổ bệnh hoạn,
Kế ngôn cữu biệt ly.
Đới khấp bất chung ngữ,
Phảng phất như cách duy.
Bình sinh bất thức lộ,
Mộng hồn hoàn thị phi ?
Điệp sơn đa hổ trĩ,
Lam thuỷ đa giao ly.
Đạo lộ hiểm thả ác,
Nhược chất tương hà y ?
Mộng lai cô đăng thanh,
Mộng khứ hàn phong xuy.
Mỹ nhân bất tương kiến,
Như tình loạn như ty.
Không ốc lậu tà nguyệt,
Chiếu ngã đan thường y.
Dịch nghĩa
Nước chảy suốt ngày đêm,
Người đi xa không về.
Bao nhiêu năm không gặp,
Biết lấy gì yên ủi mỗi nhớ mong?
Nay trong mộng thấy rõ ràng,
Đến tìm ta ở bến sông này!
Vẻ mặt thì như xưa,
Nhưng quần áo xốc xếch.
Thoạt tiên, kể nỗi khổ đau,
Rồi than thở nỗi lâu ngày xa cách.
Sụt sùi không nói ra lời,
Nhìn phảng phất như cách nhau một bức màn.
Bình sinh vốn không biết đường vào đây,
Mộng hồn chẳng rõ thực hay hư?
Núi Tam Điệp nhiều hổ báo,
Sông Lam Giang lắm thuồng luồng.
Đường bộ hay đường thuỷ đều hiểm trở,
Thân yếu đuối nhờ cậy ai?
Mộng đến, ngọn đèn cô đơn rọi sáng,
Mộng tàn, gió thổi lạnh lùng.
Người đẹp không thấy nữa,
Lòng ta như tơ vò.
Nhà trống, ánh trăng xế lọt vào,
Chiếu xuống tấm áo đơn của ta.
Người vợ trước của Nguyễn Du là em của Đoàn Nguyễn Tuấn, đã mất ở Quỳnh Hải, Thái Bình. Lúc này Nguyễn Du ở Hà Tĩnh chiêm bao thấy vợ. Ông nghĩ lúc sống bà chưa biết đường làm sao tìm được ông trong giấc chiêm bao.

Tái du Tam Điệp sơn 再踰三疊山 • Vượt lại đèo Ba Dội

再踰三疊山
雲際山三疊,
天涯客再踰。
眼中收大地,
海外見漁舟。
瘴靜峰巒瘦,
天寒草木秋。
行人回看處,
無那故鄉愁。
Tái du Tam Điệp sơn
Vân tế sơn Tam Điệp,
Thiên nhai khách tái du.
Nhãn trung thu đại địa,
Hải ngoại kiến ngư chu.
Chướng tĩnh phong loan sấu,
Thiên hàn thảo mộc thu.
Hành nhân hồi khán xứ,
Vô ná cố hương sầu.

Giang đình hữu cảm 江亭有感 • Cảm tác ở đình bên sông

江亭有感
憶昔吾翁謝老時,
飄飄蒲駟此江湄。
仙舟激水神龍鬥,
寶蓋浮空瑞鶴飛。
一自衣裳無覓處,
兩隄煙草不勝悲。
百年多少傷心事,
近日長安大已非。
Giang đình hữu cảm
Ức tích ngô ông tạ lão thì,
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang my.
Tiên chu kích thuỷ thần long đấu,
Bảo cái phù không thuỵ hạc phi.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
Cận nhật Trường An đại dĩ phi.
Dịch nghĩa
Nhớ xưa, cha ta cáo lão về hưu,
Xe bồ ngựa tứ đưa về bến sông này, oai vệ làm sao!
Đoàn thuyền tiên xô nước lướt tới như rồng thần đấu nhau,
Tàn tán phất phới trên không như chim hạc bay báo điềm lành.
Từ khi bóng áo xiêm không thấy đâu nữa thì trông ngọn khói,
Làn cỏ ở hai bên bờ sông mà khôn xiết ngậm ngùi.
Cuộc đời trăm năm biết bao nhiêu chuyện thương tâm,
Gần đây Trường An đã khác lắm rồi.
Giang đình là ngôi đình bên sông Lam gần làng Tiên Điền. Đây là một trong tám cảnh đẹp của huyện Nghi Xuân, Nghệ An.

Ức gia huynh 憶家兄 • Nhớ anh

憶家兄
六塔城南繫一官,
海雲夜渡石巑岏。
窮陬嵐瘴三年戍,
故國煙花二月寒。
一別不知何處住,
重逢當作再生看。
海天茫渺千餘里,
神魄相求夢亦難。
Ức gia huynh
Lục Tháp thành nam hệ nhất quan,
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.
Cùng tưu lam chướng tam niên thú,
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.
Nhất biệt bất tri hà xứ trú?
Trùng phùng đương tác tái sinh khan.
Hải thiên mang diểu thiên dư lý,
Thần phách tương cầu mộng diệc nan!
Dịch nghĩa
Chức quan buộc chân anh ở phía nam thành Lục Tháp,
Đi vào đó ban đêm phải vượt đèo Hải Vân, đá lởm chởm.
Anh ở nơi hẻo lánh đầy khí độc ấy ròng rã đã ba năm trời,
Tiết tháng hai lạnh lẽo chắc nhớ hoa khói ở quê nhà lắm.
Kể từ khi từ biệt, nay không biết đích xác ở nơi nào,
Cuộc trùng phùng có lẽ phải đợi đến kiếp sau.
Trời bể mênh mang, đường xa nghìn dặm,
Hồn phách tìm nhau trong giấc mộng cũng thấy khó khăn.
Anh của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ (1761-1805) giữ chức Hiệp tán quân cơ Sơn Tây. Khi Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc, ông theo không kịp, về quê mẹ ở Bắc Ninh. Sau có người tiến cử, ông theo Tây Sơn, giữ chức Hàn lâm thị thư, sau đó làm Phó sứ tuế cống sang Trung Quốc. Khi Gia Long lên ngôi, ông ra trình diện, làm quan vài năm rồi mất.

Trên đây là gồm 30 bài thơ nằm trong tập thơ Mười năm gió bụi được rút từ quyển thơ Thanh hiên thi tập. Ở các bài tiếp theo chúng tôi sẽ chia sẻ tới độc giả yêu thơ 2 tập thơ của quyển thơ Thanh hiên thi tập Nguyễn Du. Mời các bạn theo dõi nhé.
Xem tiếp: Tập thơ: Thanh Hiên thi tập 清軒詩集 – Nguyễn Du P2