Nhà thơ Nam Trân và những bài thơ dịch của Đỗ Phủ hấp dẫn nhất phần 2

Nam Trân là một thi sĩ lãng mạn và nhiệt thành cho phong trào “Thơ mới”. Ông được xem là một cây bút tài hoa xứ Quảng, những bài thơ của ông viết về Huế đều được đông đảo bạn đọc yêu thích và đón nhận. Ngoài ra ông còn là một dịch giả xuất chúng cùng những thi phẩm dịch vang danh. Trong đó ấn tượng nhất là tập thơ dịch của Đỗ Phủ hoàn toàn chinh phục trái tim bạn đọc. Hãy đón xem nhé!

Mộng Lý Bạch kỳ 1 夢李白其一

死別已吞聲,
生別長惻惻。
江南瘴癘地,
逐客無消息。
故人入我夢,
明我長相憶。
君今在羅網,
何以有羽翼?
恐非平生魂,
路遠不可測。
魂來楓林青,
魂返關山黑。
落月滿屋梁,
猶疑照顏色。
水深波浪闊,
無使蛟龍得。

Mộng Lý Bạch kỳ 1

Tử biệt dĩ thôn thanh,
Sinh biệt thường trắc trắc.
Giang Nam chướng lệ địa,
Trục khách vô tiêu tức.
Cố nhân nhập ngã mộng,
Minh ngã trường tương ức.
Quân kim tại la võng,
Hà dĩ hữu vũ dực.
Khủng phi bình sinh hồn,
Lộ viễn bất khả trắc.
Hồn lai phong lâm thanh,
Hồn phản quan tái bắc.
Lạc nguyệt mãn ốc lương,
Do nghi chiếu nhan sắc.
Thuỷ thâm ba lãng khoát,
Vô sử giao long đắc.

Dịch nghĩa

Người chết đi là đã hết lời
Người còn sống thì lúc nào cũng thương xót
Giang Nam là nơi chướng độc
Người bị đày không nghe tin tức
Cố nhân đi vào trong mộng
Biết là ta nhớ nhung đã lâu nay
Tôi e rằng hồn bạn không được như ý lắm
Nhưng lâu nay đường xá xa xôi không gặp không biết có phải vậy không
Hồn về đây cánh rừng phong xanh ngát
Hồn trở lại miền quan tái đen tối xa xăm
Bạn giờ đây đã nằm sa trong lưới
Làm sao mà có lông cánh bay bỗng khắp nơi
Trăng xuống chiếu trên rường nhà
Còn ngờ như đang soi trên khuôn mặt bạn
Nước thì sâu sóng thì lớn
Mong bạn coi chừng cẩn thận con thuồng luồng dưới nước

Dịch

Chết xa nhau nín đã đành
Sống xa nhau để đinh ninh bên lòng
Giang nam hơi độc mịt mùng
Khách đi đày biết vân mồng ra sao
Chiêm bao ta bạn lẻn vào
Rõ lòng ta chẳng lúc nào lúc quên
Biết đâu cách trở đôi miền
Sợ khi không phải hồn quen mọi ngày
Hồn về xanh ngắt ngàn cây
Hồn đi quan ải bóng mây đen rầm
Bạn nay dò lưới giam cầm
Cách nào vượt được xa xăm canh dài
Xà nhà trăng lặn rọi soi
Còn như nhác thấy mặt người năm xưa
Sông sâu sóng nước không bờ
Giữ mình chớ để sa cơ thuồng luồng

Mộng Lý Bạch kỳ 2 夢李白其二

浮雲終日行,
遊子久不至。
三夜頻夢君,
情親見君意。
告歸常局促,
苦道來不易。
江湖多風波,
舟楫恐失墬。
出門搔白首,
若負平生志。
冠蓋滿京華,
斯人獨憔悴。
孰雲網恢恢,
將老身反累。
千秋萬歲名,
寂寞身後事。

Mộng Lý Bạch kỳ 2

Phù vân chung nhật hành,
Du tử cửu bất chí.
Tam dạ tần mộng quân,
Tình thân kiến quân ý.
Cáo quy thường cục xúc,
Khổ đạo lai bất dị.
Giang hồ đa phong ba,
Chu tiếp khủng thất truỵ.
Xuất môn tao bạch thủ,
Nhược phụ bình sinh chí.
Quan cái mãn kinh hoa,
Tư nhân độc tiều tuỵ.
Thục vân võng khôi khôi,
Tương lão thân phản luỵ.
Thiên thu vạn tuế danh,
Tịch mịch thân hậu sự.

Dịch nghĩa

Mây trôi bềnh bồng cả ngày nay
Người khách ham chơi lâu ngày không thấy tới
Ba hôm nay nằm mộng thấy bạn
Thâm tình của bạn lộ rõ ta thấy
Lúc cáo từ bạn có vẻ bồn chồn không an
Nói rằng đường xá khó khăn không dễ lại thăm
Sông hồ nhiều sóng gió
Chèo lái sợ sẩy tay chìm thuyền
Ra cửa còn xoa xoa đầu tóc bạc
Có vẻ như nghịch ý mình sao đó
Nào mũ, nào lọng đầy kinh đô
Chỉ có mình người này là tiều tuỵ
Ai bảo lưới trời lồng lộng
Về già rồi hoá ra thân lại bị luỵ
Ngàn năm vạn năm sau danh tiếng
Nhưng chết đi rồi thì im lìm chẳng còn gì để nói

Dịch

Mây nổi chạy quanh ngày
Khách du đâu vắng biệt
Ba đêm gặp bác luôn
Lòng tôi bác đã biết
Lối lại kêu khó khăn
Ðòi về chi mải miết
Sông hồ sóng gió nhiều
Chèo lái lo khôn xiết
Chí cũ chắc không đành
Bước ra đầu lắc riết
Ðầy kinh mũ lọng ai
Người ấy riêng thua thiệt
Ðeo lụy lúc hồ già
Ai rằng trời xét nét
Muôn năm tiếng để đời
Vô ích sau khi chết

Phục sầu kỳ 12 復愁其十二

病減詩仍拙,
吟多意有余。
莫看江總老,
猶被賞時魚。

Phục sầu kỳ 12

Bệnh giảm thi nhưng chuyết,
Ngâm đa ý hữu dư.
Mạc khan Giang Tổng lão,
Do bị thưởng thì ngư.

Dịch nghĩa

Bệnh giảm, thơ vẫn còn vụng,
Ngâm nhiều, ý có thừa.
Chớ coi cái ông già Giang Tổng này,
Còn bận thưởng thức cá đang mùa.

Tàm cốc hành 蠶穀行

天下郡國向萬城,
無有一城無甲兵。
焉得鑄甲作農器,
一寸荒田牛得耕。
牛盡耕,
蠶亦成。
不勞烈士淚滂沱,
男穀女絲行復歌。

Tàm cốc hành

Thiên hạ quận quốc hướng vạn thành,
Vô hữu nhất thành vô giáp binh!
Yên đắc chú giáp tác nông khí,
Nhất thốn hoang điền, ngưu đắc canh.
Ngưu tận canh,
Tàm diệc thành.
Bất lao liệt sĩ lệ bàng đà,
Nam cốc, nữ ti, hành phục ca.

Dịch nghĩa

Thiên hạ kể hàng vạn thành trì,
Không thành nào không có binh đao!
Uớc gì khí giới được đúc làm nông cụ,
Và một tấc ruộng hoang trâu cũng được cày.
Trâu cày hết ruộng,
Tằm tang cũng thành công.
Không phiền các liệt sĩ phải tầm tã nước mắt,
Trai cày ruộng, gái canh cửi, vừa làm vừa ca.

Dịch

Dưới trời các quận khắp muôn thành
Không có thành nào không giáp binh
Ước sao áo giáp đúc cày cuốc
Một tấc ruộng hoang chẳng phế canh
Ruộng chẳng phế canh
Tằm chăn cũng xinh
Khỏi phiền liệt sĩ lệ tuôn sa
Trai cày gái dệt thảy vui ca.

Tân An lại 新安吏

客行新安道,
喧呼聞點兵,
借間新安吏,
縣小更無丁?
府帖昨夜下,
次選中男行。
中男絕短小,
何以守王城?
肥男有母送,
瘦男獨伶俜。
白水暮東流,
青山猶哭聲。
莫自使眼枯,
收汝淚縱橫。
眼枯即見骨,
天地終無情。
我軍取相州,
日夕望其平。
豈意賊難料,
歸軍星散營。
就糧近故壘,
練卒依舊京。
掘壕不到水,
牧馬役亦輕。
況乃王師順,
撫養甚分明。
送行勿泣血,
僕射如父兄。

Tân An lại

Khách hành Tân An đạo
Huyện hô ao điểm binh
Tá vấn Tân An lại
Huyện tiểu cánh vô đinh
Phủ thiếp tạc dạ há
Thứ tuyển trung nam hành
Trung nam tuyệt đoản tiểu
Hà dĩ thủ vương thành?
Phì nam hữu mẫu tống
Sấu nam độc linh bình
Bạch thuỷ mộ đông lưu
Thanh sơn do khốc thanh
Mạc tự sử nhãn khô
Thu nhữ lệ tung hoành
Nhãn khô tức kiến cốt
Thiên địa chung vô tình!
Ngã quân thủ Tương Châu
Nhật tịch vọng kỳ bình
Khởi ý tặc nan liệu
Qui quân tinh tản doanh
Tựu lương cận cố luỹ
Luyện tốt y cựu kinh
Quật hào bất đáo thuỷ
Mục mã dịch diệc khinh
Huống nãi vương sư thuận
Phủ dưỡng thậm phân minh
Tống hành vật khấp huyết
Bộc dịch như phụ huynh!

Dịch nghĩa

Khách qua đường Tân An
Nghe rầm rộ bắt lính
Ướm hỏi viên lại Tân An
Rằng huyện nhỏ hết cả trai tráng
Đêm qua quan phủ lại hạ trát
Bắt tuyển xuống hạng trung nam
Trung nam thấp bé quá
Giữ sao nổi thành nhà vua?
Hạng trai mập mạp có mẹ đi tiễn
Riêng hạng gầy nhàng thất thễu lẽ loi
Chiều rồi, dòng nước bạc vẫn cứ xuôi đông
Tận dãy núi xanh còn vang tiếng khóc
Thôi! Đừng làm cho mắt mình khô đi nữa
Hãy ngừng những hàng lệ ngổn ngang lại
Mắt khô tức là trơ xương
Trời đất bao giờ cũng dửng dưng lạnh nhạt
Quân ta đã lấy được châu Tương
Sớm chiều những mong yên ổn
Ai ngờ thế giặc khôn lường
Quân rút về các trại tản mát
Muốn tiện lương, phải đóng gần luỹ cũ
Để luyện quân lính phải dựa kinh xưa
Đào hào không đào đến nước
Chăn ngựa cũng là việc nhẹ nhàng
Huống chi quân nhà vua là chính nghĩa
An ủi, nuôi dưỡng rất phân minh
Buổi tiễn đưa đừng khóc lóc thảm thiết nữa
Có quan bộc dịch chẳng khác gì cha anh!

Dịch

Khách qua đường Tân An
Nhộn nhịp nghe điểm binh
Hỏi thăm, thầy thông bảo:
“Huyện nhỏ không còn đinh!
Hôm qua trát phủ xuống,
Sung số tuyển cho nhanh!”
Số tuyển thấp bé quá,
Giữ sao nổi đô thành?
Anh béo, mẹ đưa chân,
Anh gầy nhìn loanh quanh.
Nước bạc chiều chảy xuôi,
Tiếng khóc vang non xanh!
Khóc chi cho hốc mắt?
Nín đi thôi các anh!
Dẫu cho khóc rũ xương,
Trời đất vẫn vô tình!
Quân ta lấy Tương Châu,
Hôm sớm mong thanh bình!
Lính chạy, trại tan vỡ,
Liệu giặc, ai người tinh!
Vận lương tới trước trận,
Rèn lính ngay miền Kinh,
Đào hào chưa tới nước,
Chăn ngựa việc cũng lành.
Quân ta đương thắng thế,
Nuôi nấng rất phân minh.
Quan tướng như mẹ, cha,
Khóc chi khi tiễn hành?

Tẩy binh mã 洗兵馬

中興諸將收山東,
捷書夜報清晝同。
河廣傳聞一葦過,
胡危命在破竹中。
只殘鄴城不日得,
獨任朔方無限功。
京師皆騎汗血馬,
回紇喂肉葡萄宮。
已喜皇威清海岱,
常思仙仗過崆峒。
三年笛里關山月,
萬國兵前草木風。
成王功大心轉小,
郭相謀深古來少。
司待清鑒懸明鏡,
尚書氣與秋天杳。
二三豪俊為時出,
整頓乾坤濟時了。
東走無復憶鱸魚,
南飛覺有安巢鳥。
青春復隨冠冕入,
紫禁正耐煙花繞。
鶴禁通宵風輦備,
雞鳴問寢龍樓曉。
攀龍附風勢莫當,
天下盡化為侯王。
汝等豈知蒙帝力?
時來不得誇身強。
關中既留蕭丞相,
幕下復用張子房。
張公一生江海客,
身長九尺鬚眉蒼。
征起適遇風雲會,
扶顛始知籌策良。
青袍白馬更何有?
後漢今周喜再昌。
寸地尺天皆入貢。
奇祥異端爭來送:
不知何國致白環,
復道諸山得銀瓮。
隱士休歌紫芝曲,
詞人解撰河清頌。
田家望望惜雨乾,
布谷處處催春種。
淇上健兒歸幕懶,
城南思婦愁多夢。
安得壯士挽天河,
淨洗甲兵長不用!

Tẩy binh mã

Trung hưng chư tướng thu Sơn Đông,
Tiệp thư dạ báo thanh trú đồng.
Hà Quảng truyền văn nhất vi quá,
Hồ nguy mệnh tại phá trúc trung.
Chỉ tàn Nghiệp thành bất nhật đắc,
Độc nhiệm sóc phương vô hạn công.
Kinh sư giai kỵ hãn huyết mã,
Hồi Ngột ổi nhục Bồ Đào cung.
Dĩ hỉ hoàng y thanh Đạt Hải,
Thường tư tiên trượng quá Không Đồng.
Tam niên địch lý “Quan san nguyệt”,
Vạn quốc binh tiền thảo mộc phong.
Thành Vương công đại tâm chuyển tiểu,
Quách tướng mưu thâm cổ lai thiểu.
Tư đồ thanh giám huyền minh kính,
Thượng thư khí dữ thu thiên diễu?
Nhị tam hào tuấn vị thì xuất,
Chỉnh đốn càn khôn tế thì liễu.
Đông tẩu vô phục ức lô ngư,
Nam phi giác hữu an sao điểu.
Thanh xuân phục tuỳ quan miên nhập,
Tử cấm chính nại yên hoa nhiễu.
Hạc giá thông tiêu phượng liễn bị,
Kê minh vấn tẩm long lâu hiểu.
Phan phong phụ phượng thế mạc đương,
Thiên hạ tận hoá vi hầu vương.
Nhữ đẳng khởi tri mông đế lực,
Thì lai bất dắc khoa thân cường.
Quan Trung ký lưu tiêu thừa tướng,
Mạc hạ phục dụng Trương Tử Phòng.
Trương công nhất sinh giang hải khách,
Thân trường cử xích, tu mi thương.
Trưng khởi thích ngộ phong vân hội,
Phù điên thuỷ tri trù sách lương.
Thanh bào bạch mã cánh hà hữu,
Hậu Hán kim Chu hỉ tái xương.
Thốn địa xích thiên giai nhập cống,
Ký tường dị thuỵ tranh lai tống.
Bất tri hà quốc trí bạch hoàn,
Phục đạo chư sơn đắc ngân úng.
Ẩn sĩ hưu ca “Tử chi” khúc,
Từ nhân giải soạn “Hà thanh” tụng.
Điền gia vọng vạng tích vũ can,
Bố cốc xứ xứ thôi xuân chủng.
Kỳ thượng kiện nhi quy mạc lãn,
Thành nam tư phụ sầu đa mộng.
An đắc tráng sĩ vãn thiên hà,
Tĩnh tẩy giáp binh trường bất dụng.

Dịch nghĩa

Các tướng trung hưng thu lại Sơn Đông,
Tin thắng trận báo về suốt ngày đêm.
Sông rộng, nghe nói thuyên nan cũng qua được?
Vận mệnh giặc hồ mong manh như tre bị chẻ.
Còn thành Nghiệp, chưa đầy một ngày sẽ hạ xong,
Viên tướng độc nhiệm miền bắc có công rất lớn.
Ở kinh đô toàn người cưỡi giống ngựa hãn huyết,
Quân Hồi Ngột no thịt ở cung Bồ Đào.
Đã mừng vì uy danh vua dẹp yên vùng Hải Đại,
Thường nhớ khi xe ngựa vua qua núi Không Đồng.
Ba năm nghe sáo thổi bài “Quan san nguyệt” (Trăng quan ải),
Muôn nước trước đoàn quân như cỏ bị gió bạt.
Thành vương công lớn mà lòng cẩn thận, kiêm tốn,
Quách tướng mưu sâu xưa nay ít có.
Tư đồ sáng suốt như tấm gương treo,
Thượng thư khí phách cao xa như trời thu.
Vài ba kẻ tài giỏi vì thời thế mà ra,
Sắp đặt trời đất làm song việc cứu đời.
Người chạy đông không còn phải nhứ cá vược,
Kẻ xuôi nam cảm thấy như tìm về tổ ấm.
Vẻ thanh xuân lại theo các quan vào chầu,
Cung điện tôn nghiêm có hoa khói vây phủ.
Xe hạc đi lại suốt đêm, xe phượng trực chờ sẵn,
Gà gáy, sớm vào lầu rồng vấn an nhà vua.
Quyền thế bọn vin rồng náu phượng ai bì kịp,
Thiên hạ như trở thành toàn bậc hầu vương.
Các ngươi nên biết đó là nhờ uy lực của vua,
Chứ kẻ gặp thời may chớ khoe tài cậy sức.
Quan Trung đã để Tiêu Hà lên làm thừa tướng,
Dưới trướng lại dùng Trương Lương.
Ông Trương vốn là người của sông bể,
Mình cao chín thước râu tóc trắng phau.
Được vua vời, gặp hội gió mây,
Chống thế nguy, mới biết mưu giỏi.
Giặc áo xanh ngựa trắng không cò nữa,
Sau Hán nay chu lại mừng được thịnh trị.
Dù tấc đất thước trời cũng đều vào cống,
Điềm lành vật lạ đua nhau dâng lên,
Không rõ nước nào hiến vòng ngọc trắng.
Lại nghe nói trong núi bắt được bình bạc,
Kẻ ẩn dật không hát bài “Tử chi ca” nữa.
Văn nhân cho rằng phải làm bài “Từ thanh tụng”,
Nhà nông mong cho mưa nắng thuận hoà.
Khắp nơi, chim bố cốc giục gieo mạ xuân,
Lính sông Kỳ hãy về đi đừng chần chờ,
Thiếu phụ thành Nam nhớ chồng, buồn mơ nhiều…
Sao có tráng sĩ kéo sông Ngân xuống,
Rửa sạch dao mác, mãi mãi không dùng.

Dịch

Trung hưng các tướng lấy Sơn Đông,
Thắng trận tin đưa sớm, tối trùng.
Đem thế chẻ tre đè mạng giặc,
Mượn tầu lá sậy vượt dòng sông.
Sóc phương lập được bao công cả,
Nghiệp quận nay mai sẽ hạ xong.
Hồi Ngột đưa thêm quân trợ thuận,
Kinh sư đều cưỡi ngựa truy phong.
Đã mừng oai chúa vang Tề, Lỗ,
Còn nhớ xe loan tới Không Đồng.
Sáo thổi ba năm quan quan ải lạnh.
Quân đồn muôn nước gió cây rung!
Thành Vương công lớn long càng nhỏ,
Quách tướng mưu sâu đời hiếm có.
Thượng thư khí khái nhất trời thu,
Tư đồ sang suốt treo gương tỏ.
Hào kiệt vài tay ra giúp đời,
Kiền khôn sắp đặt đâu ra đó.
Sang đông khỏi nhớ cá quê nhà,
Về nam đã thấy chim yên tổ.
Áo xiêm thấm đượm ánh xuân xanh,
Hoa khói điểm tô cung cấm đỏ.
Xe hạc đêm chờ kiệu phượng về,
Canh gà sớm viếng lầu rồng ngủ.
Víu phượng, vin rồng khéo bảo nhau,
Trong đời vô số kẻ sang giàu!
Gặp thời xin chớ khoe mình giỏi,
Nên nhớ ơn vua nặng đến đâu!
Trong ải đã dùng Tiêu tướng quốc,
Dưới màn lại sẵn Trương Lưu hầu.
Ông Trương người của miền sông biển,
Chín thước mình cao, bạc tóc râu!
Gặp hội gió mây ra giúp nước,
Nước nguy mới thấy rõ mưa cao.
Áo xanh, ngự
a bạch còn chi nữa,
Đời trị, dân yên lại bắt đầu!
Gang trời, tấc đất đều vào cống,
Triệu lạ, điềm lành nhiều lủng nhủng!
Có nước đem dâng vòng “bạch hoàn”,
Trong non lại được chum “ngân úng”.
Thi nhân vịnh mãi cảnh sông trong,
Ẩn sĩ thiết gì cỏ tiên rụng.
Đâu đấy nhà nông thấy khát mưa,
Véo von chim nội giục: gieo giống!
Trai tài mặt trận liệu mau về!
Vợ trẻ bên thành đương tiếc mộng.
Muốn kéo dòng Ngân rửa giáo gươm,
Xếp xó từ đây không động dụng!

Thiên mạt hoài Lý Bạch

涼風起天末,
君子意如何。
鴻雁幾時到,
江湖秋水多。
文章憎命達,
魑魅喜人過。
應共冤魂語,
投詩贈汨羅。

Thiên mạt hoài Lý Bạch

Lương phong khởi thiên mạt,
Quân tử ý như hà?
Hồng nhan kỷ thời đáo,
Giang hồ thu thuỷ đa.
Văn chương tăng mệnh đạt,
Lị vị hỉ nhân qua.
Ưng cộng oan hồn ngữ,
Ðầu thi tặng Mịch La.

Dịch nghĩa

Trong lúc gió mát nổi lên ở nơi cuối trời,
Bạn có ý nghĩ ra sao?
Biết bao giờ chim hồng nhạn mới tới đây?
Sông hồ có nhiều nước thu.
Văn chương thường ghét hạnh vận hanh thông;
Yêu quái vui mừng khi thấy có người đi qua.
Lúc này chắc bạn đang trò chuyện với hồn oan của Khuất Nguyên,
Và ném thơ xuống tặng ở sông Mịch La.

Dịch

Cuối trời nổi gió lạnh,
Quân tử nghĩ sao à?
Hồng nhạn bao giờ đến,
Sông hồ dẫy bao la.
Văn chương ghét vận đạt,
Quỉ quái gào người qua.
Nhắn hỏi hồn oan uổng,
Trao thơ dòng Mịch La.

Tuyệt cú lục thủ kỳ 4 絕句六首其四

急雨捎溪足,
斜暉轉樹腰。
隔巢黃鳥并,
翻藻白魚跳。

Tuyệt cú lục thủ kỳ 4

Cấp vũ sao khê túc,
Tà huy chuyển thụ yêu.
Cách sào hoàng điểu tịnh,
Phiên tảo bạch ngư khiêu.

Dịch nghĩa

Mưa rào lướt qua chân khe,
Ánh chiều tà chiếu ngang thân cây.
Đôi chim vàng oanh đứng cạnh nhau bên tổ,
Cá trắng nhảy lật tung cả rong.

Dịch

Chân suối mưa rào lướt
Lưng cây bóng xế lồng
Oanh vàng gù cách tổ
Cá trắng nhảy tung rong

Tuyệt cú tứ thủ kỳ 3 絕句四首其三

兩個黃鸝鳴翠柳,
一行白鷺上青天。
窗含西嶺千秋雪,
門泊東吳萬里船。

Tuyệt cú tứ thủ kỳ 3

Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.

Dịch nghĩa

Hai con hoàng anh hót trong hàng liễu biếc,
Một hàng cò trắng bay vút lên trời xanh.
Song cửa ngậm tuyết núi Tây Lĩnh đã từ nghìn năm,
Ngoài cửa đậu những con thuyền của Đông Ngô xa tới muôn dặm.

Dịch

Liễu xanh hót cặp oanh vàng,
Trời lam trắng điểm một hàng cò bay.
Song lồng mái tuyết non Tây,
Thuyền Ngô muôn dặm đỗ ngay cửa ngoài.

Ức đệ kỳ 1 憶弟其一

喪亂聞吾弟,
飢寒傍濟州。
人稀書不到,
兵在見何由。
憶昨狂催走,
無時病去憂。
即今千種恨,
惟共水東流。

Ức đệ kỳ 1

Táng loạn văn ngô đệ,
Cơ hàn bạng Tế châu.
Nhân hi thư bất đáo,
Binh tại kiến hà do?
Ức tạc cuồng thôi tẩu,
Vô thì bệnh khứ ưu.
Tức kim thiên chủng hận,
Duy cộng thuỷ đông lưu.

Dịch nghĩa

Thời buổi loạn lạc,nghe tin em
Đói rét nương náu ở châu Tế
Vắng người thư không đến nơi
Còn giặc biết làm sao gặp nhau ?
Nhớ xưa cuống cuồng giục chạy
Không lúc nào biết ốm đau và lo lắng
Hiện nay hàng nghìn mối hận
Phó mặc cùng dòng nước chảy về đông

Dịch

Chạy loạn sang châu Tế,
Nghe em đói rét hoài.
Đường thăm còn vướng giặc,
Thư gửi biết nhờ ai?
Lủi trốn khi lo vẩn,
Buồn phiền lúc ốm dai.
Phó cho dòng nước chảy,
Nghìn vạn mối sầu dài!

Ức đệ kỳ 2 憶弟其二 

且喜河南定,
不問鄴城圍。
百戰今誰在?
三年望汝歸。
故園花自發,
春日鳥還飛。
斷絕人煙久,
東西消息稀。

Ức đệ kỳ 2

Thả hỉ Hà Nam định,
Bất vấn Nghiệp Thành vi.
Bách chiến kim thuỳ tại ?
Tam niên vọng nhữ quy.
Cố viên hoa tự phát,
Xuân nhật điểu hoàn phi.
Đoạn tuyệt nhân yên cửu,
Đông tây tiêu tức hy.

Dịch nghĩa

Hãy mừng Hà Nam đã yên
Không hỏi đến vòng vây Nghiệp Thành
Qua trăm trận nay còn lại ai?
Ba năm trông ngóng em về
Vườn cũ hoa tự nở
Ngày xuân chim vẫn bay
Khói bếp nhà ai đã tắt ngấm lâu rồi
Đông tây tin tức thưa thớt

Dịch

Mặc chỗ chưa tan giặc,
Mừng nơi đã giải vây.
Ba năm em vẫn ngóng,
Trăm trận sống là may.
Vườn cũ hoa đua nở,
Ngày xuân chim lạc bầy!
Xóm làng người khói vắng,
Tin tức bặt đông, tây

Xuân dạ hỉ vũ 春夜喜雨

好雨知時節,
當春乃發生。
隨風潛入夜,
潤物細無聲。
野徑雲俱黑,
江船火獨明。
曉看紅濕處,
花重錦官城。

Xuân dạ hỉ vũ

Hảo vũ tri thì tiết,
Đương xuân nãi phát sinh.
Tuỳ phong tiềm nhập dạ,
Nhuận vật tế vô thanh.
Dã kính vân câu hắc,
Giang thuyền hoả độc minh.
Hiểu khan hồng thấp xứ,
Hoa trọng Cẩm Quan thành.

Dịch nghĩa

Mưa lành biết được tiết trời
Đang lúc xuân về mà phát sinh ra
Theo gió hây hẩy vào đêm tối
Tưới mát muôn vật mà không nghe tiếng
Đường quê đầy mây âm u
Thuyền trên sông chỉ thấy lửa sáng
Sớm mai trong vùng ẩm ướt đỏ thắm
Hoa nở đầy cả thành Cẩm Quan

Dịch

Mưa thuận biết thời tiết,
Xuân về mới thấy rơi.
Vào đêm theo với gió,
Không tiếng thấm muôn loài.
Đường nội, mây đen phủ,
Thuyền sông, đuốc lẻ loi.
Sáng xem vùng ướt đỏ,
Thành Cẩm trĩu hoa tươi.

Xuân nhật ức Lý Bạch 春日憶李白

白也詩無敵,
飄然思不群。
清新庾開府,
俊逸鮑參軍。
渭北春天樹,
江東日暮雲。
何時一樽酒,
重與細論文?

Xuân nhật ức Lý Bạch

Bạch dã thi vô địch,
Phiêu nhiên tứ bất quần.
Thanh tân Dữu khai phủ,
Tuấn dật Bão tham quân.
Vị bắc xuân thiên thụ,
Giang Đông nhật mộ vân.
Hà thì nhất tôn tửu,
Trùng dữ tế luân văn?

Dịch nghĩa

Thơ Lý Bạch không có ai là địch thủ,
Tứ thơ phơi phới, nhẹ nhàng không ai bằng được.
Trong sáng, mới mẻ, giống như thơ của Dữu khai phủ,
Hào hùng phiêu dật, giống như thơ của Bão tham quân.
Lúc này tôi đang ngắm hàng cây dưới trời xuân tại Vị Bắc,
Thì bạn đang ở trong bóng mây chiều ở Giang Ðông.
Biết bao giờ được cùng nhau uống một chén rượu,
Và bàn kỹ về thơ văn?

Dịch

Lý Bạch thơ ai sánh
Lâng lâng tứ tuyệt trần
Thanh hơn Dữu Khai phủ
Cao chấp Bão tham quân
Mây đất Giang Đông tối
Cây trời Vị Bắc xuân
Bao giờ một nậm rượu
Lại cùng luận thơ văn

Xuân vọng 春望

國破山河在,
城春草木深。
感時花濺淚,
恨別鳥驚心。
烽火連三月,
家書抵萬金。
白頭搔更短,
渾欲不勝簪。

Xuân vọng

Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hoả liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.

Dịch nghĩa

Núi sông còn đó mà nước mất rồi,
Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.
Cảm thương thời thế mà hoa ướt lệ,
như con chim bị tên, kinh sợ sự chia lìa.
Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền.
Thư nhà lúc này đáng vạn đồng.
Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,
Muốn cài trâm mà chẳng được.

Dịch

Nước mất còn sông núi
Thành xuân cảnh um tùm
Biệt ly lòng chim hãi
Cám cảnh lệ hoa tuôn
Lửa hiệu liền ba tháng
Thư nhà đáng mấy muôn
Gãi hoài cùn tóc bạc
Chừng tuột chiếc trâm luôn

Bằng trí tuệ hơn người Nam Trân đã thành công trong những tập thơ dịch đặc sắc của mình. Đây được coi như một dấu son đỏ trên mặt trận văn học Việt Nam. Đây là thành quả xứng đáng cho sự cống hiến không ngừng nghỉ của ông. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Nhà thơ Nam Trân và những bài thơ dịch của Đỗ Phủ hấp dẫn nhất phần 1