Huỳnh Văn Nghệ – Nhà thơ, nhà chỉ huy quân sự tài năng

Huỳnh Văn Nghệ là một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng, chỉ huy quân sự Việt Nam. Với nhiều tài năng về thi ca, ông có những đóng góp lớn cho sự nghiệp văn học và sự nghiệp phát triển nước nhà trong thời kì chống Pháp. Ông được nhận giải thưởng nhà nước về nghệ thuật.

I. Đôi nét về tác giả Huỳnh Văn Nghệ

Huỳnh Văn Nghệ sinh ngày 12-2-1914 tại làng Tân Tịnh, Tân Uyên, tỉnh Biên Hoà, nay là xã Thường Tân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Ông tham gia cách mạng rất sớm, tháng 7 năm 1945, lần thứ hai ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, Thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong tại Biên Hòa, và tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám.
Cuối tháng 9 năm 1945, ông đứng ra thành lập chính phủ Nam kỳ Cộng hòa quốc. Cuối tháng 9 năm 1945, ông đứng ra thành lập chính phủ Nam kỳ Cộng hòa quốc. Tháng 4 năm 1946 ông được cử làm Phó Chủ tịch kiêm Ủy viên Quân sự của Ủy ban Hành chính tỉnh Biên Hòa.
Sau khi rời quân đội, Huỳnh Văn Nghệ chuyển sang làm Tổng cục phó Tổng cục Lâm nghiệp.
Năm 1965, ông về miền Nam tham gia chống Mỹ, tham gia công tác tại Trung ương Cục miền Nam, giữ các cương vị Trưởng ban Căn cứ, Phó ban Kinh tài và Trưởng ban Lâm nghiệp.
Sau khi đất nước thống nhất, ông là Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp (về sau hợp nhất vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).
Ông lâm bệnh và mất tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 3 năm 1977.

II. Những bài thơ nổi bật của tác giả Huỳnh Văn Nghệ

Nhà thơ Huỳnh văn Nghệ làm nhiều bài thơ và in trong tập Thơ Đồng Nai, Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ.

Bà bán cau

Nắng hạn đường xa nối chân mây…
Còn đi đâu, đi mãi hỡi ai ?
Mặc gánh nặng oằn, hai vai chịu,
Dưới trời mưa lửa chỉ chau mày.
Mẹ ơi! Cảnh ấy dẫu trăm năm,
Ngàn năm, hay muôn vạn ngàn năm
Một phút sau này con còn sống
Cảnh kia còn đốt mãi lòng con.
Con đường xe cong uống trên đồng khô,
Xóm làng xa, nắng chang, lim dim ngủ,
Trời cao, cao vút điểm mây khô,
Từ giữa trời xanh: nguồn nắng đổ.
Trên đường cát xa thăm thảm ấy,
Bà bán cau, gánh nặng trên vai oằn,
Lẹ làng đi, dưới chân cát cháy
Nón, dù đâu? Nắng đốt chiếc khăn rằn.
Gió bốc khói tung lên cuồn bụi trắng,
Xóm mờ xa khuất dạng sau rừng tre.
Mồ hôi chảy vòng quanh đôi má rám
Bà bán cau bước mãi dưới trưa hè.
Động lòng, bóng cây thầm nhắc nhủ.
“Bà má ơi! Ghé gánh nghỉ chân già!”
Nhưng không nghe, bà cứ đi, đi mãi,
Nhớ chiều nay, trước ngõ, đám con chờ.
(Tân Uyên 1935)

Bà mẹ Việt Nam

Có mặt nước bốn ngàn năm lịch sử
Bốn ngàn năm tranh sống với thời gian
Máu anh hùng tô non sông cẩm tú
Mồ hôi dân kết đọng ngọn lúa vàng
Mẹ Việt Nam tuổi bốn mươi thế kỷ
Gót Cà Mau đầu tận ải Nam Quan
Cửu Long Giang, buông dài làn sóng tóc
Dựa Trường Sơn, đứng gác Thái Bình Dương.
Ngàn thuở trước làm dâu nhà Hồng Lạc
Một giòng con hăm lăm triệu Tiên Rồng
Con trung hiếu, trai khôn và gái đẹp
Cùng mẹ hiền lo xây dựng non sông
Có biển rộng, sông dài, rừng núi đẹp
Đồng phì nhiêu, lúa mía ngập mênh mang
Và âm thầm bao nhiêu vàng, than thép
Dưới mỏ sâu chờ đợi bước vinh quang.
Giặc cướp nước đánh hơi từ bốn phía
Kéo về đây thực hiện mộng tham tàn
Tên núi sông trờ thành tên chiến địa
Chống xâm lăng thành truyền thống nhân dân.
Gặp thời loạn, mẹ phất cờ khởi nghĩa
Bầy con ngoan đứng dậy diệt quân thù.
Lũ cướp nước đã bao phen khiếp vía
Trở về quê không rửa kịp máu đầu.
Nay giặc Pháp lại mang đầu trở lại.
Dù tầm vông phải chọi với xe tăng
Mẹ vững tin nơi bầy con trung hiếu
Ngày mai đây diệt chúng cứu giang sơn.
Rồi Việt Nam của rừng vàng biển bạc
Của bình yên sáng lạng tiếng chim quyên
Sẽ nguyên vẹn, mẹ nghe chăng khúc hát
Khải hoàn ca từng nhịp đã vang lên.
(Chiến khu Đ, cuối 1946)

Bên bờ sông xanh

Bờ sông xanh chiều hôm nay buộc ngựa,
Kiếm gối đầu theo gió thả hồn cao
Thơ tôi đây cũng hoa bướm muôn màu,
Lòng tôi đây, cũng vui sầu như bạn.
Tôi cũng biết nhớ thương, tơ tưởng.
Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân,
Tôi là người lăn lóc trên đường trần,
Không phân biệt lúc mài gươm, múa bút.
Đời chiến sĩ máu hòa lệ, mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi
Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi
Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác
Trên lưng ngựa múa gươm vừa ca hát
Lòng ta say chiến trận đến thành thơ
Máu quân thù chảy đỏ quê hương ta
Còn có vần thơ nào hay hơn nữa
Bạn đừng ngại vì người thơ mê ngủ
Quên cuộc đời, tìm mộng để làm thơ
Bạn đừng lo tôi say máu quân thù
Quên ghi chép những vần thơ huyền diệu
Có chiến đấu thơ mới thêm vần điệu
Càng hát ca, gươm càng sắc bén thêm
Nợ kiếm cung, nghiên bút, biết sao đền
Nếu không biết vừa làm thơ, giết giặc.
Gửi lại bạn những vần thơ trên cát
Và giờ đây tôi qua bến, lên đường.
15.10.1948

Bến cũ

(Kính gởi Việt kiều ở hải ngoại)
Đây bến cũ chốn muôn thuyền đợi gió
Buồm phập phồng như phổi nhịp bên hông
Neo buông sâu như những sợi tơ lòng
Thuyền lớn, nhỏ toàn chứa đầy hy vọng.
Trời quang đãng mây đen vừa tan bóng
Thuyền sắp đi, bến đã động lòng thương
Ai phăng neo vội vã để đoạn trường!
Nhưng gió mới căng buồm thuyền chuyển động.
Thuyền lớn nhỏ toàn chứa đầy hy vọng
Trời xa khơi màu hứa hẹn xanh xanh
Thuyền ra đi, chim bể báo tin lành
Bến ngậm lệ đành để thuyền vượt sóng.
Rồi từ đấy bến xưa hằng mong ngóng.
Cây đa già lá rụng đã bao phen
Nhưng biệt mù khơi, nào thấy bóng thuyền,
Những thuyền xưa cùng nhau đi đuổi mộng
Về đây thôi, hỡi những thuyền hy vọng.
Chở về đây những mộng đẹp xa xôi!
Lưu luyến chi bến lạ chốn quên người
Để bến tưởng thuyền xưa đà lạc hướng.
(Bangkok 1944)

Bờ sông bị chiếm

Mất cả bờ sông xanh
Mất luôn con đường đá đỏ
Thôi hết rồi nước ngọt
Thôi hết rồi gió mát bờ tre
Gái Tân Uyên ứa lệ trưa hè
Thương vườn cũ dâu, chè không ai tưới.
Trai Tân Tịch về bờ sông hái bưởi
Cũng chết oan dưới mũi súng quân thù.
Mỏi mòn thương nhớ người xa,
Vườn xơ xác gốc trầu buồn ủ rũ
Dây kẽm gai rối nuồi đường bến cũ
Mắc cỡ tây chụp phủ bãi rau lang
Hàng tháp canh như chó dữ nhe răng
Từng loạt súng dọa ánh trăng, dòng nước.
Tàu há mồm, chuyển xuôi, chuyển ngược
Chỉ sâu thêm mặt nước, vết căm hờn.
Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu
Mất nước ngọt, bờ tre gió mát.
Thuyền tiếp tế, lúa khoai chìm đáy nước
Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ.
Nhưng quân thù vẫn sợ lòng chiến khu
Cờ đỏ vẫn phất cao cành cổ thụ
Giữa lòng dân hoa vẫn nở niềm tin:
Việt Minh còn sẽ chiếm lại sông xanh.
(Chiến khu Đ – 1950)

Bức thư thành

Bức thư ai từ Sài Gòn yêu mến
Vượt bót đồn về đến chiến khu.
Dấu lệ rơi trên nét chữ đã mờ
Lời êm ả, dịu dàng và tha thiết:
“Chốn thị thành hoa thôi nở từ lâu
Mây trắng bay tuôn về nẻo chiến khu
Nên thương nhớ cũng dồn về hướng đó.
Nơi cờ đỏ sao vàng còn rạng rỡ
Phải chăng anh, người chiến sĩ hiên ngang
Gửi theo đây, này áo ấm, khăn len
Anh đỡ mệt những đêm ngoài sương gió…”
Một trời thương trong một phong bì nhỏ
Mở ra xem nức nở cả lòng ta
Đây chiến khu nơi suối hát, chim ca
Nhưng ta vẫn cứ nhớ nhung thành thị.
Nơi lần đầu tiên ta cầm vũ khí
Theo bóng cờ son dứt áo ra đi.
Lệ người thương còn ướt chiếc khăn tay.
Nơi thuở ấy ôi đau lòng thế kỷ
Ngọn tầm vông, xông vào đầu súng máy.
Xương anh hùng còn gửi đất Thị Nghè.
Ngày báo cừu lưỡi kiếm cứ lăm le
Mỗi sáng chào cờ nhìn về hướng ấy.
Thề lấy lại Thủ đô và Thành thị
Máu xâm lăng phải tưới đỏ quê hương.
Giải phóng Sài Gòn trăm nhớ, ngàn thương.
Đây chiến khu, biết bao chiều lau súng.
Ta nhớ em, hỡi xa vắng Thị Thành
Em tủi nhục ở trong vòng tạm chiếm
Biết bao giờ nguôi hận chiến khu xanh.
(Chiến khu Đ 1947)

Cái chết của anh Xiểng

Đầu năm 1946, ông Nguyễn Văn Xiểng, Nghị sĩ Quốc hội người thiểu số tỉnh Biên Hòa trên đường đi Hà Nội để họp Quốc hội lần đầu tiên, bị giặc bắt giết hại tại Xuân Lộc.
Anh Xiểng mở mắt tròn xoe
Trừng trừng nhìn lũ giặc
Đang trói vòng anh
Sau xe Jeep
Giữa biển nắng trưa vàng
Ngoảnh đầu nhìn ngọn núi Chứa Chan
Nhớ lại ngày anh trúng cử:
Đồng bào Xuân Lộc
Từ rừng xanh, núi đỏ kéo về đây.
Tiệc mừng anh, đêm ấy cả rừng say
Trăng lảo đảo, trên chăn mây, gối núi.
Mới hôm qua, chia tay trên bờ suối
Mừng mừng, tủi tủi, mến thương.
Từng con chim, cái sóc, cành hương
Cũng thỏ thẻ vuốt ve, lưu luyến…
Một dây siết hai cổ tay tê điếng
Nhựa đường trưa như điện đốt bàn chân
Nhưng ngọn núi Chứa Chan
Vẫn cao đầu hiên ngang dưới nắng.
Lời kêu gọi của núi rừng
Còn vang lừng trong từng tiếng suối, lời chim.
Anh vẫn đứng lặng im,
Trước bao nhiêu lời dụ, dọa:
“Không biết nói thì cúi đầu cũng được
Chịu đầu Tây, cho về huyện làm quan
Không thì xe sẽ kéo xác trên đường”.
Anh vẫn đứng lặng im
Hiên ngang như ngọn núi.
Máu căm thù dâng lên trong mắt đỏ
Nhìn lũ giặc như hùm thiêng nhìn chó
Bỗng gầm lên mấy tiếng vang trời:
“Không, không đầu Tây
Tao thề chết tại đây!”
Chiếc xe hốt hoảng rồ ga
Phóng tới như điên, kéo anh ngã gục
Từ cao xa ngọn Chứa Chan còn thấy
Thây một anh hùng dân tộc
Đuổi theo xe như một khối căm hờn
Máu anh đỏ mãi ruộng vườn
Núi rừng Xuân Lộc nhớ thương đời đời.
(Hà Nội 1956)

Cây thông già và anh thợ rừng

Dưới bóng cây thông già
Anh thợ rừng nghỉ trưa
Gác đầu trên cán búa
Nghe chim hát vu vơ…
Mơ thấy thông thành người
Một lão già râu bạc
Ngồi kể lể chuyện đời
Lời ôn tồn tha thiết:
“Lưỡi búa anh bén quá
Chặt tôi đành sao anh
Chúng mình nào xa lạ…
Cùng khổ trong chiến tranh.
Cả họ rừng tôi đây
Con sóc đến cây cầy
Không một người theo Tây
Không một ai theo Mỹ
Chúng tôi quyết bám rễ
Đứng giữ mảnh đất này
Dù đội bom chịu lửa
Một bước chẳng hề lui
Rừng ta che bộ đội
Rừng ta vây quân thù
Tuy rừng chưa biết nói
Chuyện rừng đã nên thơ.
Quân thù đã phá hủy
Hai triệu mẫu rừng xanh
Mối thù này phải trả
Hỡi loài người văn minh
Đất rừng còn nhức nhối
Hố bom khoét thân mình
Cây dầu còn rỉ máu
Vết đạn vẫn chưa lành.
Rừng đang kêu cấp cứu
Ú ớ chẳng nên lời
Tiếng rừng nào ai hiểu
Chỉ gió thổi, thông reo.
Anh hãy thương rừng với
Chặt nhẹ búa mà thôi
Để núi rừng đâm chồi
Sống cho đời thêm đẹp
Vì lợi ích cả nước
Trước mắt và lâu dài
Nghĩ kỹ mới ra tay
Kẻo ngày mai ân hận.
Lời Bác Hồ căn dặn
“Phải trồng cây, gây rừng”
Khó khăn cùng ráng chịu
Tiêu diệt rừng sao đang.
Rừng chết dễ như chơi
Vừa ngã xuống, vừa cười
Thương đời không bóng mát
Ai che đất, che trời.
Chim thú không chỗ sống
Bước lưu vong ngậm ngùi
Mất rừng tan tổ ấm
Của tổ tiên loài người.
Dân mình còn gian khổ
Hòa bình chưa ăn mừng
Lo thiếu gạo, thiếu gỗ
Nhưng phải bảo vệ rừng.
Ngày mai rừng tươi lại
Cho người đỡ nắng mưa
Thêm lúa thơm, gỗ quý
Suối trong veo, bốn mùa…”
Anh thợ rừng tỉnh giấc
Ngơ ngác nhìn mênh mông
Tìm ông già râu bạc
Chỉ chim hót cành thông.
Đường về lúa ngoảnh lại
Chỉ thấy ngọn thông già
Như một chàng dũng sĩ
Đứng gác rừng bao la.
(7-3- 1976)

Chiến khu Đ chống bão

Rùng rợn giữa đêm mưa
Tiếng vợ khóc gọi chồng chới với:
“Con trôi rồi, con trôi theo bè chuối…!”
Không tiếng trả lời
Chỉ từ nóc nhà tranh
Tiếng chó đứng sủa hời.
Trời sáng rồi, mưa vẫn cứ rơi
Những nóc nhà trôi
Những thân cây đổ.
Suối ngập thành sông, sông tràn thành biển
Mênh mông sóng vỗ chân trời.
Thôi hết rồi, hết lúa, hết khoai
Chiến khu Đồng Nai lại đói.
Con ngậm củ mài, cha nhơi củ chuối.
Ứớt mắt chồng nhìn vợ nuốt vỏ khoai
Đứt ruột mẹ tiếng con thơ đòi bú.
Voi cũng trôi tận Cù lao Phố
Mấy con trâu vướng cột cầu Gành.
Một tượng Phật dời lên nóc đình
Đành chắp tay nhìn dòng nước lũ.
Trút cả hũ, còn không đầy nắm muối
Cho ngày ăn cả đại đội Lam Sơn.
Ba người chia một vắt cơm.
Tạm đỡ dạ cả tiểu đoàn chủ lực.
Chèo chống ngày đêm, lênh đênh trên mặt nước.
Vớt của, vớt người.
Thân trần chèo chống dưới mưa.
Tiếng cười vẫn nô đùa sóng gió.
Từng manh chiếu, quả dừa, chiếc bừa, bó đũa.
Vớt lên mang trả lại từng người.
Đồn Rạch Đông nước ngập sắp trôi
Lính ngụy lên nóc đồn kêu cầu cứu:
“Huyện đội Vĩnh Cửu ơi… Vĩnh Cửu,
Cứu chúng em, ơn trả, nghĩa đền”.
Chiến sĩ ta, cười reo lên
Nghe lệnh đồng chí chính trị viên:
“Chèo nhanh lên, cứu chúng nó…”
Nhưng giặc Pháp muốn thừa cơ trận bão
Đánh chiến khu, một trận cho tiêu tan
Dồn sức tấn công, lừa bịp, chiêu hàng.
Tăng cường truyền đơn và bom pháo.
Cả chiến khu đêm nay không ngủ
Tụ năm, tụ ba,
Bàn tán về tiểu đoàn ba trăm ba:
“Dù thiếu cơm, dù thiếu áo
Đánh giặc càng hay,
Ăn củ mì cũng giỏi
Thế nào cũng thắng, và… phải thắng!”
Bỗng được tin loa:
“Ta tiêu diệt hoàn toàn đồn Bến Sắn”.
Tiệc liên hoan có bát cơm gạo trắng
Tiếng cười, tiếng hát, vang rừng.
(Hà Nội 1960)

Du kích Đồng Nai

Kính tặng anh Chín Quỳ – người chỉ huy du kích Đồng Nai)
Chiến khu Đ có từ thuở ấy
Có một anh đồng chí
Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi
Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai
Lập chiến khu nuôi chí lớn.
Nước ngọt, dân thương, rừng rộng
Tiếng súng đêm đêm phá mộng bọn lính, tề
Bạn với núi rừng, trái cam, măng le.
Đêm lắng nghe gió trời muôn dặm:
Thuyền Hít-le chìm đắm.
Biển Liên Xô sóng đỏ dâng trào
Pháp mở cửa Đông Dương quỳ gối
Rước Nhật vào
Hơn hai triệu đồng bào chết đói…
Chi đội vũ trang mới tròn tiểu đội
Cơ sở nhân dân chỉ nội huyện Tân Uyên.
Phải chống ngụy, tề bố ráp ngày đêm
Suất năm năm, hai chính quyền Pháp, Nhật.
Ngày đói ăn rau, đêm lo thao thức
Mỗi năm thêm nấm mộ giữa rừng:
Ba Tôn, Bảy Chiếp, Út Liễng, Tư Mừng…
Bỗng một chiều sương
Gió thu đang tơ vàng lá cám.
Động bước chân ai, giật mình rừng thẳm.
Anh Giỏi về, người thợ xưởng Ba Son.
Lá cờ son
Tay anh hé mờ
Lệ du kích Đồng Nai thấm vào vải đỏ.
Giữa mùa thu mà hoa nở thình lình.
Đọc truyền đơn như đọc bức thư tình
Từng chữ một đánh vần đến thuộc
Chiến khu xanh đêm vui đỏ đuốc
Suối mừng reo, tiếng guốc nhịp đều đều.
Chợ Tân Uyên bỗng lên giá lụa điều
Mua lụa đỏ cũng bị tra, bị đánh.
Cờ Việt Minh, ngôi sao năm cánh
Như tim vàng ngự giữa lòng son.
Cách mạng đến giữa mùa trăng tháng Tám
Chiến khu Đ, rừng vắng bóng tưng bừng.
Sợi dây thừng thắt bao đạn quanh lưng
Áo rách vai, đầu trần, đi khởi nghĩa.
Những tròng mắt bừng bừng ánh lửa
Gót chân chai giậm vỡ nhựa đường.
Cờ đỏ sao vàng
Đã ngập trời Nam Bộ:
Những đoàn người như thác đổ
Tiếng hò reo đất lở nghiêng trời
Bọn giặc Nhật rụng rời
Quỳ dâng lại Sài Gòn và lục tỉnh
Người du kích Đồng Nai gác tòa thị sảnh
Ngỡ từ nay hết nghe lạnh rừng sâu.
(Bắc Sơn 1954)

Đám ma nghèo

Đám ma ai giữa mưa dầm gió lạnh!
Bốn người khiêng lắt lẻo chiếc quan tài
Người vợ kêu trời khan cả giọng
Ẵm con thơ lần bước dưới mưa rơi.
Sau goá phụ còn hai con trẻ dại
Dắt díu nhau, nheo nhóc khóc không thôi.
Và sau nữa… không còn ai nữa hết.
Bầy chó theo sủa mãi đám ma côi.
(Biên Hoà 1938)
Đường về
Xe cũ quá kêu vang trên đường sắt,
Núi sầu che, mút mắt núi sầu che.
Xe chở lòng hay lòng đã chở xe?
Nghe ngóng quá, lòng ơi sao nặng quá!
Phải ta cứ ở nhà mơ ước nữa,
Đi làm chi mà về với đau thương.
Máu đào tuôn, cứ để máu đào tuôn
Trên đường ấy để lần sau tránh bước.
Ôi đau đớn! Chưa đi đà biết trước:
Bước lên đường là tan một giấc mơ.
Đi gặp nhau để hết nhớ mong chờ,
Tình thú vị chỉ trong thơ qua lại.
Đã lỡ bước, nên đến không muốn thấy
Nhác trông cây không trái với không chim.
Để tìm gì trong bạn chút phần tim
Người đã hứa tặng ta từ xa cách.
Nào đâu những hoa vàng chào chim khách,
Tấm khăn tình phơ phất đón sân ga.
Đâu môi duyên cười đón bạn phương xa
Và lòng mở, tim run, tay siết chặt?
Ta chỉ gặp lạnh lùng trong giếng mắt
Trên đường về xe gầm thét kêu thương…
Ta lặng yên, nén lệ, ngắm mây ngàn.
(Sài Gòn 1938)

Em bé liên lạc

Nhà em ở xóm Cây Dâu
Trước kia ở đợ giữ trâu cho người
Nay em đánh giặc được rồi
Một mình bảo đảm thơ từ qua sông
Ngày đêm nước lớn, nước ròng
Em ôm thân chuối bơi không cần thuyền.
Mẹ em ngồi đứng không yên
Thương em thù giặc, ngày đêm phập phồng
Nghe từng loạt súng bờ sông
Mà nghe như đạn xé lòng, xé gan.
Quân thù vừa tóm được em
Mẹ lăn vào bót xin đem em về
“Nó chăn trâu bắt làm gì
Nó chưa đủ sức đánh Tây đâu mà…”
Ba ngày bị đánh, bị tra
Mắt lồi, má tím, máu trào môi đen
Mẹ em cũng hết lời khuyên:
“Cứ khai cho mẹ, để yên cho rồi
Thà rằng con sống mồ côi
Còn hơn để mẹ suốt đời khóc con!”
Lắc đầu em cố nói “không”
Giặc hăm cắt cổ, thả sông, em cười.
Hôm sau dòng nước Đồng Nai
Đưa ra biển cả một thây không đầu.
Mẹ em, chị Sáu Cây Dâu
Xin đi bộ đội trả thù cho con.
(Chiến khu Đ – 1953)

Giữ bí mật

Bắt được anh du kích
Thằng Tây xồm vểnh râu
Tuốt dao găm hăm dọa
Hỏi dồn dập mấy câu:
“Mầy ăn gì để sống,
Đánh với ông bấy lâu
Chiến khu bị phong tỏa
Gạo, cơm hết còn đâu?
Mầy ăn gì để sống?
Trâu bò chết hết rồi
Cầy bừa bị đốt sạch
Đập nát hết lúa rồi.
Mầy ăn gì để sống?
Củ chụp hay củ nần
Ăn cái gì là chính
Sống được mãi trong rừng.
Nói thì ông sẽ thả.
Không thì đừng trách trời
Dao găm này mổ bụng
Cũng lòi ra mà thôi…”
Anh du kích không nói.
Răng cắn chặt lấy môi
Trước mưa roi đẫm máu
Miệng anh cứ như cười.
Thằng Tây càng căm tức:
“Tao quyết sẽ giết mầy,
Khám phá điều bí mật.
Mổ bụng mầy rõ ngay.”
Anh du kích không nói
Dao găm rạch dạ dày
Thằng Tây trợn mắt trắng.
Nhìn mấy mảnh khoai mì!
Anh du kích đã chết rồi
Đồng bào thương tiếc, cúng xôi mỗi mùa.
(Bình Định 1953)

Hành quân

Đoàn quân đi như thân rắn uốn
Quanh đồi, qua suối, qua đồng,
Qua xóm làng như dải lụa cong cong
Êm như dòng nước.
Trẻ em chạy theo nhìn không chớp mắt.
Đếm hoài chưa hết đoàn quân.
Lúa khoai mừng đếm ướt những bàn chân,
Cành lá ngụy trang múa reo trên mũ áo.
Cơm vắt ban đêm ngày không đỏ lửa,
Thương đồng chí anh nuôi cặp mắt mơ màng.
Chiếc nồi đồng há miệng thênh thang
Như buồn ngủ ngáp dài vô tận.
Thương anh trinh – liên suốt ngày lận đận
Chạy như thoi gác trước canh sau.
Thương chị cứu thương mũ chẳng vừa đầu.
Vì tiếc mãi chưa “hy sinh” búi tóc.
Đường gập ghềnh, quanh co, hố, dốc,
Thương anh công binh lo từng bước cho đoàn,
Nối cây rừng thành cầu dọc, cầu ngang
Lưỡi rựa bén chưa bao giờ được nghỉ
Thương đoàn ngựa thồ vừa đi vừa thở
Lưng nặng oằn chân bước mãi không than.
Bờ suối xanh mừng có lệnh nghỉ chân
Cả ngựa lẫn người cong lưng uống nước.
Thương đồng chí chỉ huy
Tới giờ đi rút vội điếu thuốc
Thương cả đoàn quân đi dưới nắng mưa
Áo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt,
Nước lắt ống tre; muối mè cơm vắt
Nương áo nhau lần bước đêm rừng.
Cũng mệt rã rời, mỏi cả tay chân
Nhưng chị cứu thương đến đâu
Nghe cười tràn đến đó.
Cũng có người vừa đi vừa mớ.
Nhưng cả đoàn quân chung một giấc mơ:
“Ông Địa cười xe địch sẽ thành tro,
Xung phong ra đường vung cao mã tấu.
Giặc quỳ xuống lạy xin tha thứ:
“Cho em về kẻo tội nghiệp vợ con”.
“Nhưng thôi đừng đi lính nữa nghe không?”
Bận trở về được đi đường tắt.
Súng giặc nặng vai, đầu thêm mũ sắt.
Giày đinh thu được rộng chật cứ mang
Vang bước đoàn quân chiến thắng giữa đường làng,
Đêm liên hoan đồng bào mừng trăng sáng.
(1955)

Hình ảnh Bác Hồ trong lòng Nam Bộ

Nhớ ngày sau kháng chiến.
Giữa thành phố Sài Gòn
Một chiến sĩ bị thương.
Lấy máu mình đang chảy
Tô lên tường năm chữ
“Thành phố Hồ Chí Minh”
Rồi mới đành lòng tắt thở
Cuộc kháng chiến bắt đầu từ đó
Sử Việt Nam, thêm một trang đỏ anh hùng.
“Thành phố Hồ Chí Minh”
Một lời thề thiêng liêng
Khắc sâu bằng chữ đỏ
Trong lòng người Nam Bộ
Như máu thắm lòng tim.
Giặc phá hủy miếu đình
Đốt nhà thờ, trường học
Không làm sao đốt được
Hình ảnh Bác trong lòng dân
Hình ảnh Bác khắp nơi
Theo dân đi kháng chiến
Khắp bưng biền, rừng thẳm
Thờ bên ảnh đức Chúa Trời
Bên cạnh Phật Thích Ca
Trong ba lô chiến sĩ
Trong cặp vở học trò
Trong bức tranh họa sĩ
Trong vần điệu nhà thơ
Giữa cơ quan, đơn vị
Sao mắt Bắc sáng ngời
Truyền niềm tin, dũng khí.
Khẩu hiệu thành tiếng sét
Kết thúc những mít tinh
“Hồ Chí Minh muôn năm!”
Khẩu hiệu thành khúc hát
Mẹ ru con giữa rừng.
“Hồ Chủ tịch muôn năm!”
Quyết thành câu khai báo
Khi bị giặc khảo tra.
Cũng là lời trăn trối
Khi sắp sửa lìa đời.
Bao năm trời khói lửa
Chỉ mong có mặt ngày
Bác vào thăm Nam Bộ.
Nước reo vui Đổng Nai.
Vinh quanh thay anh thợ sơn
Ngày giải phóng Sài Gòn
Trèo lên cổng thành phố
Tô vàng son năm chữ
“Thành phố Hồ Chí Minh”.
(Hà Nội, 19-02-1960)

Hội nghị bình công

Ngọn đèn dầu leo lét
Đại đội họp bình công.
Đại đội phó giải thích
Chiến sĩ chưa chịu thông.
Hầu hết cho rằng vội:
“Kháng chiến chưa thành công
Chúng mình còn có tội
Với dân tộc, núi sông.
Chỉ những người chiến đấu
Đến giọt máu cuối cùng
Mới cần được bình công
Trước chúng mình tất cả.
Bao người mòn ngục tối
Bao xác lạc giữa rừng,
Ai bờ sông, hóc núi
Người còn mộ, người không.
Họ cần được khen thưởng
Chớ chưa phải chúng ta.
Chúng mình còn sung sướng
Còn đánh giặc được mà.
Đồng ý các đồng chí
Gác lại cuộc bình công
Độc lập làm luôn thể
Một lần đỡ mất công.
Giờ lo đánh giặc đã
Rủi có chết thì thôi,
Thành công khen tất cả
Cho về thủ đô chơi”.
Đại đội phó lúng túng
Nghe họ nói hay hay,
Nhìn ông đại đội trưởng
Nhờ kết luận kẻo khuya.
“Thi đua là lệnh Bác
Để kháng chiến thành công.
Muốn thi đua giết giặc
Đại đội phải bình công.
Chuyện trước, sau sẽ hay
Kể từ trận ngày mai
Có bình công khen thưởng
Anh em mình ráng ghi
Cả công mình, công bạn”.
Đèn tắt, lệnh giải tán
Anh em cười vang rừng.
Mò mắc võng, giăng màn
Vừa thách thi chiến đấu.
(1954)

Lịch sử quê hương

Ngày xưa có đoàn người từ miền Bắc
Chán ghét vua quan áp bức.
Họ đạp núi rừng vượt sóng bể khơi.
Đi vào Nam làm lại cuộc đời
Tìm đất mới gieo mầm hạnh phúc.
Có con sông cũng từ hướng Bắc
Vượt núi rừng ghềnh thác
Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao.
Người gặp sông
Ngụm nước mát ngọt ngào
Thề với trăng sao cùng nhau kết bạn
Chung nhịp bước về miền Nam nắng sáng
Nơi trời xanh nhởn nhơ đàn cò trắng
Nơi đồng xanh ngơ ngẩn đám nai vàng.
Bờ hoang vu hạ trại một chiều sương
Lột da nai
Lửa cơm chiều bốc khói
Họ đặt tên Đồng Nai cho trời đất mới.
Bao ngày gian khổ
Hằng trăm năm tranh đấu với núi rừng
Mồ hôi, nước mắt, tay sưng
Mới có được góc trời Nam tươi mát
Đồng lúa thơm, vườn bưởi đường, cam mật
Tiếng trẻ thơ cười hát sân trường,
Hồi chuông chùa êm gõ sườn non
Mái tranh vàng khói cơm chiều quyến luyến.
Thuyền dưới bến dập dìu buồm cánh én.
Xe trên đường lẻng kẻng nhạc ngựa vang.
Ôi! Tân Uyên quê mẹ đẹp muôn vàn.
(Bắc Sơn 1954)

Mất Tân Uyên

Chỉ có mây bay lên trên trời vắng!
Đáy sông xanh đâu còn bóng lầu son.
Tiếng xe ngựa vang xa trong dĩ vãng
Đây tro tàn, gạch nát, ôi tang thương.
Nhớ Tân Uyên thuở thanh bình yêu mến
Gái nhà quê hợp chợ má hồng tươi
Thuyền bốn phương về đây lưu luyến bến
Dòng sông xanh êm thắm nhẹ nhàng trôi.
Chiến tranh đến chuyển rung trời đất Việt
Mẹ lo buồn rười rượi trước ngày mai.
Lệnh Nguyễn Bình vừa oai nghiêm, tha thiết:
“Đồng bào ơi! Ta quyết chiến phen này!”
Lệnh truyền xuống tiếng reo hò vang dậy,
Lửa Tân Uyên cao ngọn đuốc tưng bừng
Ra mặt trận chen chân trai lẫn gái
Mang trầu cau mẹ bám gót dân quân.
Trận Tân Uyên cuối mùa Đông năm ấy
Lần đầu tiên giặc Pháp nếm chua cay.
Lần đầu tiên đạo viễn chinh lừng lẫy
Phải lui về bỏ lại mấy trăm thây.
Rồi từ đó Tân Uyên thành chiến địa
Máu quân thù tiếp tục chảy không thôi
Dòng sông xanh đã nhuộm màu máu tía,
Thuyền bến xưa phiêu bạt bốn phương trời.
Và từ đó dân Tân Uyên anh dũng
Vào chiến khu dựng lại mái lều tranh
Quyết kháng chiến cho đến ngày toàn thắng
Bóng cờ son in lại đáy sông xanh.
(Chiến khu Đ 1949)

Mẹ buồn

Thấy mẹ buồn, con hỏi
“Má tiếc gì má ơi!
Nhà mình con đốt rồi
Kẻo mai thành bót giặc”.
Mẹ nhìn con âu yếm
Vuốt tóc con, mỉm cười
“Thằng này nó coi tôi
Như học trò của nó
Má đẻ ra mày đó
Không nhớ, má nhắc cho.
Nhà má có ra tro
Con càng lo đánh giặc.
Nhưng mà má chỉ tiếc
Cái ống ngoáy trầu thôi
Bằng đồng chùi sáng dới
Bỏ quên trong lúc chạy
Bây giờ đồng cũng chảy…”
Bìa rừng ngồi ngắm khói lên
Mẹ buồn vì lỡ:
Bỏ quên ống ngoáy trầu.
(Chiến khu Đ 1947)

Mẹ Nam con Bắc

Mẹ bắt được lá thăm
Cầm lo le, bối rối
Nhờ cán bộ đọc giùm
Tên đứa con bộ đội.
“Anh tên Nguyễn Văn Đối
Quê quán ở Hưng Yên
Sở cao su Thuận Lợi
Nhập ngũ cướp chính quyền”.
Mẹ mừng rơi nước mắt,
Khoe khắp cả xóm làng:
Được đứa con người Bắc
Chiến sĩ của trung đoàn.
Được phép về nhìn mẹ
Đối mừng, kể đuôi đầu.
Mẹ bảo: “Nói chậm nhé
Má nghe chẳng kịp đâu”.
Mẹ làm gà hái bưởi
Bảo ăn, Đối chối từ
Mẹ giận: “Mày chê hả?
Tao đánh đòn bây giờ”.
“Má có gì ăn nấy
Mới là tình mẹ con
Ăn xong tao vá áo
Mới cho về trung đoàn”.
Một hôm đi công tác
Đối bị bắt vào đồn.
Mẹ thương con đứt ruột
Chạy sứt cả da chơn.
“Con mày sao người Bắc?
Thằng Tây trợn mắt nhìn
Mẹ vừa kể vừa khóc
Ứớt cả mắt ngụy binh.
“Chúng tôi vào Nam Bộ
Từ thuở nọ lâu rồi.
Con tôi, tôi biết rõ
Áo ba lỗ vá vai
Nhà tôi nó trồng khoai
Bây giờ đang có củ.
Cả làng ai cũng rõ
Ông hỏi lại mà coi!”
Một ngụy binh người Bắc
Đi điều tra việc này
Trở về: “Thưa quan sếp
Lời bà nói không sai”.
Anh Đối được thả ngay
Cả làng cười khúc khích.
Bỗng hôm nào mẹ chết
Vì mảnh đạn ca nông.
Chết không chịu nhắm mắt
Vì đợi mãi đứa con.
Ba ngày anh Đối khóc
Đầu quấn chiếc khăn tang
Tình mẹ Nam con Bắc
Rào rạt lòng trung đoàn.
(1953)

Mộng làm thơ

Chàng chỉ muốn làm thơ bằng máu
Trên mây hồng cho gió rải cùng trời
Để những người đau khổ khắp nơi nơi
Ngừng than thở
Và thương nhau khi trông hàng chữ máu
Nhưng e rằng chữ biến khi mây tan…
Câu thơ mình thiên hạ cũng dần quên,
Chàng lại muốn, ôi điên cuồng thay thi sĩ.
Lấp muôn sao nên vần thơ chàng nghĩ
Để trên trời ngàn thế kỷ không phai
Người trăng sao sẽ nhớ thương hoài
Quân cướp nước cướp cả quyền mực giấy
Sách chợ đời chưa thấy một vần thơ
Thơ yêu nước đọng đáy lòng thi sĩ
Như nguồn sâu chờ gặp biển bao la.
Vì thế, biết bao đêm buồn trở giấc
Nhớ vần thơ nhốt giữa lòng thổn thức
Nên đêm đêm đành đứng ngắm trời đông
Để ánh muôn sao chói cõi lòng!

(Sài Gòn 1937)
Một trận chống càn

Rùng rợn tiếng loa vang
Giữa rừng khuya giá lạnh
“Chống càn… chống càn
Đồng bào chuẩn bị chống càn…”
Máy nói trung đoàn tiếp theo reo lệnh:
“Chôn ngay máy tiện
Tắt hết lửa lò
Tháo giấu máy in
Gánh dời kho gạo
Sơ tán hết trẻ thơ, già yếu
Ngụy trang cả hầm lúa, hang heo…”
Máy nói cứ reo…
Trinh sát chạy chân không bén đất.
Tin tức trở về từng phút, từng giây.
“Tây đã vào Đất Cuốc
Xe tăng gầm phía Bào Đế, Tân Dân
Ở Lạc An, chúng đang đốt nhà dân
Nhổ từng gốc khoai
Cướp từng tô thóc,
Phía Cây Đào, rền tiếng súng cà nông
Đất Tân Tịch rỗ hố bom, đại bác”.
Rách nát thân dừa
Xác xơ ngọn chuối
Hai vợ chồng nhìn nhau không nói
Nhặt từng mảnh xương con
Gói lại
Đem chôn
Lệ trào tuôn
Không tắt lửa căm hờn
Trong bốn mắt.
Ôi chiến khu Tân Uyên!
Lại cháy nữa mái tranh, rẫy lúa,
Lại chảy nữa máu đồng bào đau khổ
Ngồi đứng không yên
Tiểu đoàn chủ lực từ Long Nguyên
Mừng được lệnh đạp đêm về căn cứ.
Cành lá ướt, sương vuốt ve mũ, áo
Đồng bào gánh bánh, nước đón mừng…
Trời vừa rạng đông
Sông Đồng Nai bỗng cười tung sóng trắng
Thủy lôi ta hạ tàu giặc ở Xóm Đèn
Tây trắng cố dìm Tây đen
Chen nhau bơi, chui đầu vào lưới đạn.
Địa lôi ta nổ trên đường Hố Cạn
Làm gục đầu mấy chiếc xe tăng
Nát thây bọn ngụy thổ, Việt gian.
Còn hai chân vướng tòn teng trên cành.
Băng hầm chông, lựu đạn.
Dân quân hạ “ông lớn” khắp nơi.
Bọn nhảy dù chân chưa bén lúa tươi
Bị cọc bén chĩa ngay lòi ruột
Con “đầm già” bị một chùm đạn mút
Lảo đảo bay về khói vuốt theo đuôi.
“Giàn nhạc” ca nông đã câm họng lâu rồi
Chiếc “cán gáo” đã chuồn mất hút
Tiếng kèn của tiểu đoàn chủ lực
Đã vang rền phía Lò Than
Đồng bào reo mừng
Mẹ vội hái củi khô
Đun thêm nồi bánh tét,
Vừa vái Trời, với Phật.
“Phù hộ trung đoàn, giết giặc lập công!”
Nồi bánh tét chưa sôi
Tin giặc đã chạy rồi
Bỏ lại cả lon quan, xác lính.
Đêm liên hoan mẹ hò lanh lảnh:
“Khu Đ đi dễ khó về
Lính đi bỏ mạng, quan về mất lon”.
(Chiến Khu Đ – 1952)

Nấm mộ giữa rừng

Đêm thao thức bên lò lựu đạn
Ngày say sưa quay máy tiện, máy bào.
Quá sức, ốm đau
Chén thuốc rễ cây rừng không cứu được.
Lòng anh em xót xa từng nhịp cuốc
Chôn anh, chiếu rách bó thân gầy.
Gỗ mộ bia có đề rõ tháng, ngày.
Chức vụ, họ tên, quê quán.
Nhưng mới ba mùa mưa, nắng.
Gỗ sơn kia không chịu nổi sức rừng.
Mộ bia mòn, chỉ còn chữ “công nhân”.
Còn tên, tuổi mối gặm dần hết cả.
Quê quán anh: Ba Son hay Cẩm Phả?
Mộ bia đành không ghi giữ được lâu.
Tinh thần anh, chim hát mãi nghìn thu.
(Chiến khu Đ – 1951)

Ngày hội

Biên Hòa đã mất
Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao.
Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiên hào
Đêm tập một, hai vang trường Đất Cuốc
Già, trẻ, gái, trai rộn ràng tập hát
Tiến quân ca.
Anh Nguyễn Bình cũng đã về đây
Xem địa thế thấy sông dài rừng thẳm
Tình quân dân đầm ấm
Anh xuống ngựa buộc cương
Đồng bào mừng, thầm gọi “ông Trung ương”.
“Của Bác Hồ gửi cho Nam Bộ”
Lạc An bỗng tưng bừng ngày hội
Kéo về đây đến bốn, năm chi đội
Kim Trương, Tô Ký, Vũ Đức, Tấn Chùa,
Chiến khu Đ của tiểu đội ngày xưa
Bỗng lớn lên như Phù Đổng.
Xóm thôn rộn ràng cờ, trống
Chim rừng hốt hoảng
Tìm cành cao nhất đứng nhìn nhau.
Giữa rừng vang từng nhịp búa thầu
Của binh công xưởng đầu tiên làm lựu đạn.
Đáy sông xanh cũng xôn xao mây trắng
Thuyền ngược xuôi gạo, muối, giọng hò.
Phố Biên Hoa thị xã mến yêu
Chiến sĩ Lạc An yêu giấc ngủ.
(Chiến khu Đ – 1947)

Nhờ Bà Cô

Giặc về lấy miễu Bà Cô
Đóng đồn kiểm soát đôi bờ sông xanh.
Bắt dân đắp lũy xây thành
Giết người ngay giữa sân đình sớm trưa.
Đồng bào bàn tán xôn xao:
“Bà Cô thiêng lắm, lẽ nào sợ Tây
Quân ta muốn đánh bót này
Xin bà phò hộ trở tay dễ dàng…”
Xóm trên, xóm dưới luận bàn
Trăm mưu, ngàn kế trung đoàn tấn công.
Người thì chỉ cách qua sông
Đường đi nước bước thuộc lòng từng ly.
Người xin mở cửa thép gai
Người thề cướp súng cối xay cạnh đình.
Buồng thờ chúng nhốt tù binh
“Tượng bà, chúng bện bù nhìn gác sông”.
Tình hình nắm vững ngoài, trong
Trung đoàn quyết định tấn công bất ngờ.
Đêm qua súng nổ vang bờ
Nhiều người van vái Bà Cô dậy làng.
“Lạy bà phù hộ trung đoàn
Chiếm đồn giết giặc cho làng nước yên!”
Rực trời lửa bốc cháy lên
Trẻ già mừng rỡ reo vang đôi bờ:
“Nhờ Bà Cô, nhờ Bà Cô!”
Nhưng trung đoàn biết là nhờ nhân dân!
Trận xong giải thích cả tuần
Đồng bào mới chịu chính mình thắng Tây.
(Chiến khu Đ 1949)

Nhớ Bắc

Ai về xứ Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng!
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu hồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.
Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên.
Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồ xưa linh quy hỡi
Bao giờ mang trả kiếm dân ta
Chiến khu D, 1946

Rừng đẹp

Rừng đẹp như một bài thơ cổ
Cành cao vượn hú
Ríu rít tổ chim.
Bờ suối đỏ hoa sim
Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa.
Đêm trăng một người một ngựa
Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi.
Hội nghị giữa trời
Chim, lá cũng góp lời góp ý.
Mắc võng cây này qua cây ấy
Củi khô lửa cháy ấm đêm đông.
Tắm, ăn nước suối một giòng.
Chung cho cả ngựa, người, trên, dưới.
Củ mì luộc chia đôi chấm muối
Mặn bùi tình nghĩa anh em.
Cửa mở suốt đêm
Doanh trại, nhà dân, cơ quan chính phủ
Chung một mái tranh
Cởi mở tâm tình
Rách lành manh áo che thân
Không phân biệt nhân dân, cán bộ.
Rồi những chiều nào đó
Kháng chiến thành công
Giữa cảnh ngựa xe thành phố
Gặp lại bạn bè hay với con, với vợ
Ngồi kể lại chuyện rừng xanh núi đỏ
Tình chiến khu còn đậm mãi ấm chè thơm.
(Chiến khu Đ – 1951)

Rừng nhớ người đi…

Kính tặng Trung tướng Nguyễn Bình, những chiến sĩ Lạc An, đã từ biệt chiến khu Đ để về Đồng Tháp năm 1946.
Từ độ chàng đi vung kiếm thép
Mịt mù khói lửa khuất binh nhung.
Rừng xanh thương nhớ như chinh phụ
Hồi hộp nghe từng tin chiến công.
Chòi cũ còn đây mái xác xơ
Tro tàn bếp lạnh, nhớ người xưa
Còn đâu những sáng tưng bừng nắng
Thử súng rền vang dưới bóng cờ.
Còn đây mái suối, chiếc cầu con
Bến đá chân anh bước đã mòn
Chim lắng, nước ngừng không hát nữa
Bãi hoang, dấu ngựa cỏ rêu phong.
Ngày đi có bướm chim đưa tiễn
Cành xanh bịn rịn vuốt yên cương.
Từ biệt Lạc An về Đồng Tháp.
Đâu biết rừng xanh cũng đoạn trường.
Từ đó Lạc An mang nhớ thương
Ba thu sầu rụng lá muôn vàn
Bốn phương lửa khói tung mù mịt
Rừng ngại ngùng cho cánh phượng hoàng.
(1947)

Sông Đồng Nai

Đồng Nai sông nước anh hùng.
Nguồn xa, xa tận núi rừng hoang vu.
Lệ tiên kết đọng hồ sâu
Còn mơ cao rộng nhớ màu gió trăng
Xông pha vượt núi băng ngàn,
Gặp Là Ngà nghĩa bạn vàng kết đôi
Thề: “Dù trắc trở núi đồi
Cũng liều sống thác tìm trời tự do…”
Đôi lòng nặng chí giang hồ
Ngàn thu say bước trở về biển xanh.
Đường xa lên thác xuống gành
Ruộng đồng lưu luyến thị thành mến ưa.
Lệ đời tràn ngập hồn thơ
Bao phen lũ hận bẻ bờ đau thương.
Gió ngang, thuyền ngược trăm đường
Đồng Nai hòa Thái Bình Dương dâng trào.

(1940)
Thú tội

Mẹ hỡi! Con đành cam bất hiếu
Để mẹ buồn và thất vọng vì con
Con còn biết làm sao cho mẹ hiểu
Nỗi lòng con cũng chua xót đời con.
Phải mẹ để mặc cho con ngu dốt
Không hiểu đời và thế giới bao la,
Con có thể tìm vui và hạnh phúc
Giữa gia đình đầm ấm tháng năm qua.
Mẹ lại nhịn trầu cau mua mực viết
Nhịn bánh quà để mua sách cho con.
Những lúc ấy, mẹ ơi có biết
Mẹ vô tình đã mua lấy đau buồn.
Giở con lại vụng khờ hơn thiên hạ
Chịu thua tình và thất bại với tiền
Phải mẹ biết con muốn làm thi sĩ
Thì mẹ ơi! Chỉ xiết nỗi ưu phiền.
Mẹ kể như một đứa con đã mất
Cây mẹ trồng sẽ không trái bao giờ
Công vun tưới bằng mồ hôi, nước mắt
Để không ngờ chỉ hái những hoa sâu.
(Tân Uyên 1939)

Tết quê người

Đêm hôm nay hoa đào cùng hẹn nở
Để ngày mai chào đón khách du xuân
Nâng cốc rượu người người vui rạng rỡ
Nghe rân ran pháo nổ xa gần.
Đêm hôm nay bao nhiêu người hớn hở
Nói cười vang giữa những cảnh xum vầy
Khoe áo đẹp, con ngoan và tiền của
Chúc cho nhau hạnh phúc mãi tràn đầy.
Đêm hôm nay cũng có bà mẹ khổ
Mỏi trông con quên cả lễ giao thừa
Đêm hôm nay chạnh đau lòng chinh phụ
Đếm tuổi con để nhớ thuở chồng xa.
Đêm hôm nay nơi tha hương lữ thứ
Khách chinh phu dừng bước lại bên đường
Ánh sao mờ phía chân trời xứ sở
Như mũi gươm, ôi! Nhức nhối, đoạn trường.
(Bangkok 1942)

Thú tội

Mẹ hỡi! Con đành cam bất hiếu
Để mẹ buồn và thất vọng vì con
Con còn biết làm sao cho mẹ hiểu
Nỗi lòng con cũng chua xót đời con.
Phải mẹ để mặc cho con ngu dốt
Không hiểu đời và thế giới bao la,
Con có thể tìm vui và hạnh phúc
Giữa gia đình đầm ấm tháng năm qua.
Mẹ lại nhịn trầu cau mua mực viết
Nhịn bánh quà để mua sách cho con.
Những lúc ấy, mẹ ơi có biết
Mẹ vô tình đã mua lấy đau buồn.
Giở con lại vụng khờ hơn thiên hạ
Chịu thua tình và thất bại với tiền
Phải mẹ biết con muốn làm thi sĩ
Thì mẹ ơi! Chỉ xiết nỗi ưu phiền.
Mẹ kể như một đứa con đã mất
Cây mẹ trồng sẽ không trái bao giờ
Công vun tưới bằng mồ hôi, nước mắt
Để không ngờ chỉ hái những hoa sâu.
(Tân Uyên 1939)

Tiếng hát giữa rừng

Ngựa bỗng dừng chân
Bên quân y viện:
Giật mình nghe tiếng
Quốc ca vang.
Phải chăng giờ chào cờ buổi sáng
Hay hội nghị cơ quan?
Sao chỉ một người cất giọng
Hát đi, rồi hát lại nhiều lần.
Xuống ngựa, buộc cương
Hỏi ra mới biết:
Bác sĩ đang cưa chân
Một chiến sĩ bị thương
Bằng cưa thợ mộc…
Bác sĩ vừa cưa vừa khóc
Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe
Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre
Anh chiến sĩ cứ mê mải hát.
Cưa cứ cưa, xương cứ đứt
Máu cứ rơi từng vết đỏ bông.
Hai bàn tay siết chặt đôi hông.
Dồn hết phổi vào trong tiếng hát:
“Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc…”
Đã hát đi hát lại bao lần
Vẫn chưa đứt xương chân
Vẫn chưa ngừng máu đỏ
Vừa xong băng bó
Anh lịm đi
Hồi hộp cả núi rừng
Tiếng hát mới chịu ngưng.
Ảnh Bác Hồ như rưng rưng nước mắt.
Trở lên yên ngựa đi từng bước
Cúi đầu nén nỗi đau thương
Nhưng lửa căm hờn
Bỗng dựng cao đầu ngựa dậy
Vang trời ngựa hí
Chí phục thù cháy bỏng tay cương.
(Chiến khu Đ 1946)

Tình súng

Đêm qua ôm súng nằm mê
Thấy ngày độc lập về quê thăm nhà.
Bờ sông đã thấy mẹ già
Đầu phơ, tóc bạc, mắt mờ, gậy rung.
Nhìn con một phút, ngại ngùng
Ôm con, mẹ khóc, ngập ngừng lời thương.
“Thật mày là Vệ Quốc đoàn
Trời ơi danh dự, vinh quang cho nhà!
Thằng này nó vẫn giống cha.
Càng cao, càng lớn lại vừa đẹp trai
Lại thêm khẩu súng trên vai
Ngôi sao trên nón, oai như ông thần.
Hỏi mày giết giặc mấy thằng
Vợ con, sự nghiệp, chiến công những gì?”
Ta nghẹn ngào nhìn mẹ
Sung sướng ngập tràn lòng
“Thưa mẹ đây báng súng
Còn ghi mấy chiến công,
Chỗ này là trận Bưng Còng
Còn đây Bến Sắn thành công mới rồi
Trảng Bom lửa cháy ngập trời
Là Ngà xe giặc, tơi bời giữa trưa
Còn đây là trận GÒ Dưa
Lệnh kèn chưa dứt, giặc thua tan tành.
Máu thù mã tấu còn tanh
Súng còn thơm khói, đôi chân ướt lầy.
Vết thương Mỹ Quới còn đây
Nhăn nheo da ngực khác gì huân chương”.
Mẹ hôn vết thương con
Như lễ gắn huân chương cho mẹ.
Hôn báng súng như dâu hiền mới cưới.
Bàn tay gầy, vuốt mãi tóc con trai…
Giữa cơn mê văng vẳng tiếng ru hời.
Bỗng giật mình tỉnh giấc
Báng súng âm bàn tay.
Mấy tiếng ó ma lai
Ngân dài rừng khuya vắng.
Súng gọi gươm chào hôn nhau lẻng kẻng.
Không ai chờ sáng
Cả trung đoàn đã đứng dậy, hành quân.
Bước chập chờn, luyến tiếc giấc mơ Xuân.
(Chiến khu Đ 1952)

Trả lời thơ Lan

“… Không đâu em, lòng anh nào đã chết
Và nguồn thơ nào đã cạn bao giờ.
Anh còn đây, còn yêu mến ước mơ
Và thương nhớ biết bao giờ phai nhạt.
Nguồn máu đỏ trong tim còn rào rạt
Hình ảnh em đượm mát góc trời quê.
Cũng bao đêm anh mong thấy anh về…
Nhưng tỉnh dậy, trăng thề đành lỗi hẹn.
Ôi mong đợi héo tàn bao bóng nến
Nhớ thương anh mòn mỏi cột lều tranh
Có bao giờ tình anh nỡ phụ mình!
Nhưng em hỡi! Chờ thái bình thiên hạ.
Em vẫn rõ anh là thân chiến mã
Nợ kiếm cung oằn oại gánh yên cương.
Tiếng non sông giục bước ra sa trường…”
(Sài Gòn 1944)

Trốn học

Trường chưa tan buổi học
Mẹ gặp con trong rừng
Liền bẻ cành bắt cúi
Đánh mấy lằn đỏ lưng.
Hỏi: “Sao mày trốn học?”
Biết nói sao bây giờ
Mẹ hăm chiều bỏ đói
Con ấp úng xin thưa:
“Má ơi! Thầy của con
Như là không biết thương
Những trò nghèo áo rách
Mỗi bữa mỗi đánh đòn.
Bảo về thay quần áo
Mà quần áo đâu còn
Bộ này sao rách mãi
Để đau tủi thân con.
Xấu hổ và sợ đau
Không tiền may áo mới
Nên con đành trốn học
Để chờ ngày mẹ giàu”.
Cành roi rời khỏi tay
Khăn rằn lau nước mắt
Mẹ ôm con vào ngực
Chim rừng ngơ ngác bay.
(Biên Hòa 1939)

Trở về

Kỷ niệm một giấc mơ ở chiến khu.
Bảo Chánh, tháng 6 năm 1947.
Mây hường vương trước ngõ
Tiếng sáo trỗi mơ màng
Hương đào đâu phương phất
Chập chờn mấy cánh loan.
Thiên thai là nơi đây
Nơi nữ tiên hò hẹn
Nơi xưa nàng đưa tiễn
Ngày ta quyết xuống trần.
Thơ ta đề cửa sổ
Nét chữ vẫn chưa phai
Ghi mối tình muôn thuở
Trần tục với bồng lai.
Gót ngọc ai dần đến
Rèm châu nhẹ vén lên
“Ôi nàng tiên yêu mến
Anh đây rồi nhớ, quên?”
Áo lam, quần lụa trắng
Khăn ngà, đôi dõn son
Hai mẹ con bước thoảng
Êm ái như đôi hồn.
Không ai nghe lời ta
Nàng không đoái nhìn ta
Cả lòng ta sụp đổ
Người đi qua hững hờ.
Mây hường tan trước ngõ
Tiếng sáo dứt bao giờ
Bầy loan theo nàng biến
Còn mình ta bơ vơ.
Thoảng hương thừa tơ tóc
Nhắc tình ấm ngày xưa
Rưng rưng hàng lệ ngọc
Nàng ơi, ta đâu ngờ!
Ta nhầm nàng sao được
Ngày xưa trong tay nhau.
Giống ta từng nét mặt
Con ta, ta quên nào!
Quay nhìn vào gương cũ:
Ta đã chết đi rồi!
Bị trần gian bao phủ
Mấy lớp đời tanh hôi.
Trán nhăn buồn nhân loại
Mắt sâu sầu thế gian
Máu thù chưa rửa sạch
Đôi bàn tay gian nan.
Nợ trần đâu đã trả
Bao năm sống với đời
Tình thương lòng tràn ngập
Tôi nào kể chi tôi.
Dưới tầng mây dày đặc
Đưa lên tận lòng tôi
Lời oán hờn u uất
Tiếng thở than ngàn đời.
Vung kiếm tan lầu ngọc
Vội chắp cánh về trần.
Tôi giật mình tỉnh giấc
Sung sướng giữa ngàn xuân.
(Sài Gòn 1944)

Về làng

Lẻn về thăm lại làng xưa
Vườn cây xơ xác gió lùa lá khô
Sông xanh không một chuyến đò
Đồi cao vắng tiếng chuông chùa công phu.
Ruộng đồng hoang trắng xương trâu
Nhà tan, cửa nát, lòng sầu mênh mông…
Lan ơi, từ độ thương chồng,
Ngờ chăng em, cảnh tan lòng hôm nay!
Nhớ ngày tay bạn trong tay
Vườn thơm chia trái, sông dài buông mơ.
Chiều nay người ngựa bơ vơ
Nhớ em nuôi bốn con thơ trong tù.
Súng đồn khua động chiến khu.
Quay về vó ngựa như tơ vương lòng.
Đồn thù phải đổ xuống sông.
Tình ta nối lại một dòng mơ xanh.
(Tân Hòa, Chiến khu Đ – 1950)
Xuân chiến khu
Xuân vẫn về đây giữa chiến khu
Rừng thông nay bỗng hết âm u
Núi non hớn hở thay màu áo
Suối biếc ngừng reo mấy nhịp cầu
Ánh sáng tưng bừng trên lá non
Chim đồi mát giọng hát véo von
Xa xa vọng gác thùng nhịp trống
Bướm giật mình bay: những mảnh hồn
Chiến sĩ từng đoàn dưới nắng tươi
Bên hoa ngồi kể chuyện, nô cười
– Xuân sau ăn tết nơi đâu nhỉ?
– Tùy bóng cờ kia sẽ trả lời!
Phấp phới cờ bay với gió xuân
Quân ca từng khúc, nhịp xa gần
Từng đoàn chiến sĩ đi ra trận
Có bướm, chim đưa tận cuối rừng.
(Tết kháng chiến đầu tiên
Chiến khu Đ -1946)

Huỳnh Văn nghệ ông trực tiếp làm tướng chỉ huy trên mặt trận cũng như làm lãnh đạo ở nhiều lĩnh vực, nhưng thơ đối với ông luôn là một phần hồn không thể tách rời.