Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 5

Tập thơ Bắc Hành Tạp Lục của Nguyễn Du đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm sâu sắc đi vào tâm hồn người đọc. Bắc hành tạp lục gồm 132 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du sáng tác trong vòng 1 năm, từ tháng hai đến tháng chạp năm Quý Dậu (1813) khi ông cầm đầu một phái đoàn sang sứ Trung Quốc. Thơ ghi chép những điều trông thấy, những cảm nghĩ dọc đường của ông. Nào! Không để các bạn chờ đợi lâu, chúng ta hãy cùng điểm lại những thi phẩm sâu sắc trong tập thơ này nhé!

Hoàng Hạc lâu 黃鶴樓 

何處神仙經幾時,
猶留仙跡此江湄?
今來古往爐生夢,
鶴去樓空崔顥詩。
檻外煙波終渺渺,
眼中草樹尚依依。
衷情無限朋誰訴,
明月清風也不知。

Hoàng Hạc lâu

Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì
Do lưu tiên tích thử giang mi ?
Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng
Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu
Nhãn trung thảo thụ thượng y y
Trung tình vô hạn bằng thùy tố
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri

Hán Dương vãn diểu 漢陽晚眺

霸王陳跡屬悠悠,
漢水滔滔晝夜流。
龜鶴兩山相對岸,
神仙一去只空樓。
詩成草樹皆千古,
日暮鄉關共一愁。
想像當年吹笛夜,
白蘋紅蓼滿汀洲。

Hán Dương vãn diểu

Bá vương trần tích thuộc du du,
Hán thuỷ thao thao trú dạ lưu.
Quy Hạc lưỡng sơn tương đối ngạn,
Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu.
Thi thành thảo thụ giai thiên cổ,
Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu.
Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ,
Bạch tần hồng liễu mãn đinh châu.

Dịch nghĩa

Vua xưa dấu cũ đã xa rồi
Triền miên sông Hán ngày đêm trôi
Hai bờ Quy Hạc nhìn nhau mãi
Tiên đã đi rồi lầu bỏ không
Cây cỏ tiếng truyền nhờ thơ cũ
Chiều tà nhớ nước mối sầu chung
Nghe như tiếng sáo trong đêm vọng
Trắng tần đỏ liễu đầy bên sông

Nhiếp Khẩu đạo trung 灄口道中 

秋滿楓林霜葉紅,
小猧嗥出短籬東。
數畦粳稻雞豚外,
一帶茅茨楊柳中。
鴻嶺隔年虛宿夢,
白頭千里走秋風。
茫然不辨還鄉路,
觸目浮雲處處同。

Nhiếp Khẩu đạo trung

Thu mãn phong lâm sương diệp hồng,
Tiểu oa hào xuất đoản ly đông.
Sổ huề canh đạo kê đồn ngoại,
Nhất đới mao tỳ dương liễu trung.
Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng,
Bạch đầu thiên lý tẩu thu phong.
Mang nhiên bất biện hoàn hương lộ,
Xúc mục phù vân xứ xứ đồng.

Dịch nghĩa

Thu ngập rừng phong, sương nhuộm đỏ lá
Tiếng chó con sủa rộn nơi rào thấp phía đông
Vài thửa ruộng lúa tám còn thêm gà lợn
Một dãy nhà tranh trong hàng dương liễu
Xa núi Hồng Lĩnh một năm trời, chỉ mộng mị suông
Ðầu tóc trắng chạy nghìn dặm trước gió thu
Mờ mịt không còn nhận ra dường trở lại quê nhà
Mây nổi ngợp mắt, đâu cũng như đâu

Lý gia trại tảo phát 李家寨早發

曉色何滄茫,
初日隱山腹。
路上人旣行,
枝頭鳥猶宿。
萬古一紅塵,
其中皆碌碌。
犬噬竹村中,
定有高人屋。

Lý gia trại tảo phát

Hiểu sắc hà thương mang,
Sơ nhật ẩn sơn phúc.
Lộ thượng nhân ký hành,
Chi đầu điểu do túc.
Vạn cổ nhất hồng trần,
Kỳ trung giai lục lục.
Khuyển phệ trúc thôn trung,
Định hữu cao nhân ốc.

Dịch nghĩa

Sắc trời ban mai thật là bát ngát
Mặt trời mới mọc còn nấp trong lòng núi
Trên đường, người đã đi
Đầu cành, chim còn ngủ
Muôn thuở một đám bụi hồng
Trong đó mọi người bận rộn
Tiếng chó sủa trong xóm trúc
Chắc có nhà của bậc cao nhân

Vũ Thắng quan 武勝關 • Ải Vũ Thắng

谷口雄關武勝名,
古時此地限蠻荊。
一兵不設自雄壯,
百載承平無戰爭。
半日樹蔭隨馬背,
十分秋意到蟬聲。
傷心千里一迴首,
滿目楚山無限青。

Vũ Thắng quan

Cốc Khẩu hùng quan Vũ Thắng danh,
Cổ thời thử địa hạn Man Kinh.
Nhất binh bất thiết tự hùng tráng,
Bách tải thừa binh vô chiến tranh.
Bán nhật thụ âm tuỳ mã bối,
Thập phần thu ý đáo thiền thanh.
Thương tâm thiên lý nhất hồi thủ,
Mãn mục Sở sơn vô hạn thanh.

Dịch nghĩa

Cửa ải hùng tráng ở núi Cốc Khẩu mang tên ải Vũ Thắng
Thời xưa, nơi này giới hạn đất Man Kinh
Không cần đóng quân, tự nó hùng tráng
Trăm năm nay hưởng thái bình, không có chiến tranh
Suốt nửa ngày, bóng cây chạy theo lưng ngựa
Mười phần, ý thu đến với tiếng ve kêu
Trên đường nghìn dặm, đau lòng quay đầu lại
Mắt ngợp núi nước Sở, xanh biết bao

Tín Dương tức sự 信陽即事 • Viết ở Tín Dương

河南首信陽,
天下此中央。
片石存申國,
重山限楚彊。
馬鳴思飼秣,
民食半枇糠。
白發秋何恨,
西風遍異鄉。

Tín Dương tức sự

Hà Nam thủ Tín Dương,
Thiên hạ thử trung ương.
Phiến thạch tồn Thân quốc,
Trùng sơn hạn Sở cương.
Mã minh tư tự mạt,
Dân thực bán tỳ khang.
Bạch phát thu hà hận,
Tây phong biến dị hương.

Ngẫu hứng 偶興

信陽城上動悲笳,
秋滿河南百姓家。
萬里鄉心回首處,
白雲南下不勝多。

Ngẫu hứng

Tín Dương thành thượng động bi già,
Thu mãn Hà Nam bách tính gia.
Vạn lý hương tâm hồi thủ xứ,
Bạch vân nam hạ bất thăng đa!

Dịch nghĩa

Trên thành Tín Dương vang lên tiếng kèn ai oán
Thu tràn ngập nhà (trăm họ) dân Hà Nam
Lòng nhớ quê xa vạn dặm, quay đầu lại
Mây trắng ở phía nam nhiều biết là bao

Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác 渡淮有感淮陰侯作

尋常一飯報千金,
五載君臣分誼深。
推食解衣難背德,
藏弓烹狗亦甘心。
百蠻谿峒留苗裔,
兩漢山河變古今。
惆悵江頭思往事,
斷雲衰草滿淮陰。

Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác

Tầm thường nhất phạn báo thiên câm (kim),
Ngũ tải quân thần phận nghị thâm.
Thôi thực giải y nan bội đức,
Tàng cung phanh cẩu diệc cam tâm.
Bách man khê động lưu miêu duệ,
Lưỡng Hán sơn hà biến cổ câm (kim).
Trù trướng giang đầu tư vãng sự,
Đoạn vân suy thảo mãn Hoài Âm.

Dịch nghĩa

Được cho một bữa cơm thường, đền ơn ngàn vàng
Năm năm trời, tình nghĩa vua tôi thật thắm thiết
Ơn đức nhường cơm sẻ áo thật khó quên
Dù chịu nạn “cất cung giết chó” cũng cam lòng
Trong khe động đất Bách Man còn để lại dòng giống
Núi sông hai nhà Hán thay đổi theo thời gian
Qua bến sông, ngậm ngùi nhớ chuyện cũ
Mây rời rạc, cỏ úa tàn tràn đầy đất Hoài Âm

Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng 渡淮有感文丞將

山河風景尚依然,
丞相孤忠萬古傳。
一渡淮河非故宇,
重來江左更何年?
哀衷觸處鳴金石,
怨血歸時化杜鵑。
南北只今無異俗,
夕陽無限往來船。

Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng

Sơn hà phong cảnh thượng y nhiên,
Thừa tướng cô trung vạn cổ truyền.
Nhất độ Hoài Hà phi cố vũ,
Trùng lai Giang Tả cánh hà niên?
Ai trung xúc xứ minh kim thạch,
Oán huyết qui thời hoá đỗ quyên.
Nam bắc chí kim vô dị tục,
Tịch dương vô hạn vãng lai thuyền.

Hà Nam đạo trung khốc thử 河南道中酷暑

河南秋八月,
殘暑未消融。
路出涼風外,
人行烈日中。
途長嘶倦馬,
目斷滅歸鴻。
何處推車漢,
相看碌碌同。

Hà Nam đạo trung khốc thử

Hà Nam thu bát nguyệt,
Tàn thử vị tiêu dung.
Lộ xuất lương phong ngoại,
Nhân hành liệt nhật trung.
Đồ trường tê quyện mã,
Mục đoạn diệt quy hồng.
Hà xứ thôi xa hán?
Tương khan lục lục đồng.

Dịch nghĩa

Tiết thu, tháng tám ở Hà Nam
Khí nóng tàn vẫn chưa tan hết
Chỗ đường ra không có gió mát
Người đi giữa nắng gay gắt
Đường dài, ngựa mệt hý vang
Mỏi mắt trông bóng chim hồng bay mất
Quê ở đâu hả anh đẩy xe?
Nhìn nhau thấy vất vả như nhau

Cựu Hứa Đô 舊許都 • Hứa Đô cũ

許州城漢帝都,
曹氏于此栘漢圖。
受禪臺基已不見,
風雨夜夜猶號呼。
自古得國當以正,
奈何侮寡而欺孤。
魏受漢禪晉受魏,
前後所出如一途。
魏亡晉續更朝代,
自此迄今幾千載。
其中興廢知幾人,
峨峨城堞何曾改。
城外青山似舊時,
奸雄篡竊人何在。
漢人宗廟已無蹤,
魏人圓陵亦頹敗。
蕩蕩城中一片土,
亭午巿人趨賣買。
惟有建安二十五年事,
人口成碑終不壞。
遠來使我多沉吟,
遺臭留芳皆古今。
突兀名城當大道,
巨奸到此應寒心。

Cựu Hứa Đô

Hứa Châu thành, Hán đế đô,
Tào thị ư thử di Hán đồ.
Thụ thiện đài cơ dĩ bất kiến,
Phong vũ dạ dạ do hào hô.
Tự cổ đắc quốc đương dĩ chính,
Nại hà vụ quả nhi khi cô!
Nguỵ thụ Hán thiện, Tấn thụ Nguỵ,
Tiền hậu sở xuất như nhất đồ.
Nguỵ vong Tấn tục canh triều đại,
Tự thử hất kim kỷ thiên tải.
Kỳ trung hưng phế tri kỷ nhân,
Nga nga thành điệp hà tằng cải.
Thành ngoại, thanh sơn tự cựu thì,
Gian hùng soán thiết nhân hà tại?
Hán nhân tông miếu dĩ vô tung,
Nguỵ nhân viên lăng diệc đồi bại.
Đãng đãng thành trung nhất phiến thổ,
Đình ngọ thị nhân xu mại mãi.
Duy hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự,
Nhân khẩu thành bi chung bất hoại.
Viễn lai sử ngã đa trầm ngâm,
Di xú lưu phương giai cổ câm (kim).
Đột ngột danh thành đương đại đạo,
Cự gian đáo thủ ưng hàn tâm.

Âu Dương Văn Trung Công mộ 歐陽文忠公墓

五尺豐碑立道傍,
宋朝古墓記歐陽。
平生直道無遺憾,
天古重泉尚有香。
秋草一丘藏鼠貉,
名家八大擅文章。
長松芝草生何處,
樵牧歌吟過夕陽。

Âu Dương Văn Trung Công mộ

Ngũ xích phong bi lập đạo bàng,
Tống triều cổ mộ ký Âu Dương.
Bình sanh trực đạo vô di hám,
Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu hương.
Thu thảo nhất khâu tàng thử lạc,
Danh gia bát đại thiện văn chương.
Trường tùng chi thảo sinh hà xứ,
Tiều mục ca ngâm quá tịch dương.

Dịch nghĩa

Tấm bia cao năm thước dựng bên đường
Ghi rõ mộ cổ của Âu Dương Tu đời nhà Tống
Bình sinh theo đường ngay, lòng không để hận
Nghìn thuở nơi chín suối vẫn có mùi hương
Một gò cỏ thu chứa đầy chuột cáo
Đó là chỗ nghỉ của một trong tám nhà văn tiếng tăm lừng lẫy
Giống thông cao tốt, sống lâu, và cỏ chi mọc ở chốn nào?
Tiếng hát của kẻ đốn củi kẻ chăn trâu lướt qua bóng chiều hôm

Bùi Tấn Công mộ 裴晉公墓

蕩蕩秋原丘隴平,
墓碑猶誌晉公名。
丹心一點留今古,
白骨天年隔死生。
儘有猷為優將相,
無妨形貌厭丹青。
傷心近日昭陵樹,
一帶啼鵑徹渭城。

Bùi Tấn Công mộ

Đãng đãng thu nguyên khâu lũng bình,
Mộ bi do chí Tấn Công danh.
Đan tâm nhất điểm lưu kim cổ,
Bạch cốt thiên niên cách tử sinh.
Tẫn hữu du vi ưu tướng tướng,
Vô phương hình mạo yếm đan thanh.
Thương tâm cận nhật Chiêu Lăng thụ,
Nhất đới đề quyên triệt Vị Thành.

Dịch nghĩa

Cánh đồng mùa thu rộng bát ngát, gò đống vắng vẻ
Bia mộ còn ghi tên Tấn Công
Một tấm lòng son để lại tiếng xưa nay
Nghìn năm xương trắng chia cách kẻ sống và người chết
Có thừa mưu lược làm tướng văn tướng võ
Hình mạo cần chi tô vẽ đỏ xanh
Đau lòng gần đây trên cây ở Chiêu lăng
Tiếng quyên kêu suốt một dải Vị Thành

Trên đây, uct.,edu.vn đã chia sẻ đến quý độc giả những trang thơ giá trị của nhà thơ Nguyễn Du. Hy vọng qua bài viết này sẽ giúp các bạn thêm phần yêu thích và hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ Nguyễn Du. Mời các bạn đón xem phần 6 vào một ngày gần nhất nhé! Thân Ái!

Xem Thêm: Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 4