Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 4

Trọn bộ tập thơ Bắc Hành Tạp Lục sẽ được uct.edu.vn chia sẻ ngay sau đây. Nguyễn Du là một nhà thơ vang danh của nền thơ ca Việt Nam. Ông được mọi người ca tụng và ngưỡng mộ mệnh danh là đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Những thi phẩm của ông đều mang nhiều cảm xúc và giàu giá trị. Trong đó nhiều tập thơ ghi danh muôn đời được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến. Cùng nhau cảm nhận những trang thơ của ông nhé!

Tam Liệt miếu 三烈廟 • Miếu ba liệt nữ

蔡女生雛卓女奔,
落花飛絮不勝言。
千秋碑碣顯三烈,
萬古綱常屬一門。
地下相看無愧色,
江邊何處吊貞魂。
清時多少鬚如戟,
說孝談忠各自尊。

Tam Liệt miếu

Thái nữ sinh sồ Trác nữ bôn,
Lạc hoa phi nhứ bất thăng ngôn.
Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn.
Địa hạt tương khan vô quí sắc,
Giang biên hà xứ điếu trinh hồn?
Thanh thời đa thiểu tu như kích,
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn!

Dịch nghĩa

Nàng Thái sinh con, nàng Trác theo trai
Hoa rụng tơ bay nói sao cho xiết
Bia kệ nghìn năm tôn thờ ba người đàn bà tiết liệt
Cương thường từ ngàn xưa gom chung vào một nhà
Dưới đất nhìn nhau, sắc mặt không hổ thẹn
Bên sông, đâu nơi viếng hồn trinh?
Thời bình lắm kẻ vểnh râu như ngọn kích
Nói hiếu bàn trung đều để suy tôn mình

Quế Lâm Cù Các Bộ 桂林瞿閣部

中原大勢已頹唐,
竭力孤城控一方。
終日死中心不動,
千秋地下髮猶長。
殘明廟社多秋草,
全越山河盡夕陽。
共道中華尚節義,
如何香火太凄涼。

Quế Lâm Cù Các Bộ

Trung nguyên đại thế dĩ đồi đường,
Kiệt lực cô thành khống nhất phương.
Chung nhật tử trung tâm bất động,
Thiên thu địa hạ phát do trường
Tàn Minh miếu xã đa thu thảo,
Toàn Việt sơn hà tận tịch dương
Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa,
Như hà hương hỏa thái thê lương.

Dịch nghĩa

Triều đại lớn Trung nguyên đã suy xụp,
Ông sức tàn vẫn nhất định giữ thành.
Ngày chót sắp chết tâm không thay đổi,
Ngàn năm dưới lòng đất tóc vẫn dài.
Miếu xã nhà tàn Minh đầy cỏ thu,
Vùng đất núi Việt nhuốm bóng chiều tà.
Dân Trung Hoa nghe nói trọng tiết nghĩa,
Sao đây hương khói tiêu điều thảm thê.

Quế Lâm công quán 桂林公館

荒草惹流螢,
閒階夜氣清。
寒燈留鬼影,
虛帳聚蚊聲。
牢落春無分,
蹉跎老自驚。
城頭聞畫角,
自語到天明。

Quế Lâm công quán

Hoang thảo nhạ lưu huỳnh,
Nhàn giai dạ khí thanh.
Hàn đăng lưu quỷ ảnh,
Hư trướng tụ văn thanh.
Lao lạc xuân vô phận,
Sa đà lão tự kinh.
Thành đầu văn hoạ giốc,
Tự ngữ đáo thiên minh.

Dịch nghĩa

Trong đám cỏ hoang đom đóm bay
Ngoài thềm vắng, hơi đêm trong mát
Ðèn lạnh giữ lại bóng ma
Màn thưa tiếng muỗi vo ve
Lo buồn xuân không đến với mình
Lần lữa thấy cảnh già giật mình kinh sợ
Nghe tiếng tù và vọng từ đầu thành
Nói chuyện một mình cho đến sáng

Đề Vi, Lư tập hậu 題韋盧集後

詩人不得見,
見詩如見人。
大山興寶藏,
獨鶴出風塵。
針芥易相感,
越胡難似親。
三唐千載後,
寂寞久無聞。

Đề Vi, Lư tập hậu

Thi nhân bất đắc kiến,
Kiến thi như kiến nhân.
Đại sơn hưng bảo tạng,
Độc hạc xuất phong trần.
Châm giới dị tương cảm,
Việt Hồ nan tự thân.
Tam Đường thiên tải hậu,
Tịch mịch cửu vô văn.

Quá Thiên Bình 過天平

分水山前二水分,
天平水面似磷峋。
一杯空奠臨江廟,
千古誰為砌石人。
半嶺溪泉皆入楚,
滿洲碑碣已非秦。
舟人爭指家鄉近,
惱殺殊方老使臣。

Quá Thiên Bình

Phân thủy sơn tiền nhị thuỷ phân,
Thiên Bình thuỷ diện tự lân tuân.
Nhất bôi không điện lâm giang miếu,
Thiên cổ thuỳ vi xế thạch nhân.
Bán lĩnh khê tuyền giai nhập Sở,
Mãn châu bi kiệt dĩ phi Tần.
Chu nhân thanh chỉ gia hương cận,
Não sát thù phương lão sứ thần.

Dịch nghĩa

Trước núi Phân Thủy chia hai dòng nước
Mặt sông Thiên Bình gợn như đá lởm chởm
Một chén rượu làm lễ suông tại ngôi đền bên sông
Nghìn xưa ai là người xếp đá (xây đền)
Khe suối của nửa núi đều chảy vào đất Sở
Đầy bãi, bia đá hết còn thuộc Tần
Nhà thuyền tranh nhau chỉ trỏ quê nhà họ gần đó
Làm não lòng muốn chết được ông sứ thần già ở phương khác đến

Vọng Tương Sơn tự 望湘山寺

古佛無量唐世人,
湘山寺裡有真身。
真身一夜燼炎火,
古寺千年空暮雲。
五嶺峰巒多氣色,
全州城郭在風塵。
孤舟江上憑欄處,
一帶松杉半夕曛。

Vọng Tương Sơn tự

Cổ Phật vô lường Đường thế nhân,
Tương Sơn tự lý hữu chân thân.
Chân thân nhất dạ tẫn viêm hoả,
Cổ tự thiên nhiên không mộ vân.
Ngũ Lĩnh phong loan đa khí sắc,
Toàn Châu thành quách tại phong trần.
Cô chu giang thượng bằng lan xứ,
Nhất đái tùng sam bán tịch huân.

Dịch nghĩa

Phật Vô Lượng xưa là người nhà Đường
Trong chùa Tương Sơn còn để lại chân thân
Một đêm chân thân bị lửa cháy hết
Chùa cổ nghìn năm phủ mây chiều
Núi đèo Ngũ Lĩnh nhiều khí sắc
Thành quách Toàn Châu ngập gió bụi
Dựa lan can trên chiếc thuyền lẻ loi trên sông
Trong dãy cây tùng cây sam, một nửa đã nhuốm bóng chiều

Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch 永州柳子厚故宅 

衡嶺浮雲瀟水波,
柳州故宅此非耶。
一身斥逐六千里,
千古文章八大家。
血指汗顏誠苦矣,
清溪嘉木奈愚何。
壯年我亦為材者,
白髮秋風空自嗟。

Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch

Hành lĩnh phù vân Tiêu thuỷ ba,
Liễu châu cố trạch thử phi gia ?
Nhất thân xích trục lục thiên lý,
Thiên cổ văn chương bát đại gia.
Huyết chỉ hãn nhan thành khổ hỹ,
Thanh khê gia mộc nại ngu hà.
Tráng niên ngã diệc vi tài giả,
Bạch phát thu phong không tự ta!

Dịch nghĩa

Trên núi Hành Lĩnh mây nổi, sông Tiêu sóng gợn
Nơi đây có phải nhà cũ của thứ sử Liễu Châu ?
Một thân bị đày ải nơi xa sáu ngàn dặm
Văn chương nghìn thuở, là một trong tám nhà văn thơ lớn bậc nhất
(Thợ vụng) tay bầm, mặt đổ mồ hôi, coi thật là khốn khổ
(Người tài như) khe trong, cây tốt, lại chịu tiếng ngu
Thời trai trẻ, ta cũng có tài ví như gỗ tốt
Nay bạc đầu, tự mình than vãn trước gió thu

Tương giang dạ bạc 湘江夜泊

一去六十里,
悠悠江水長。
浮雲連五嶺,
明月會三湘。
別浦分新色,
遥空失故鄉。
鶴來人不見,
晚樹鬱滄滄。

Tương giang dạ bạc

Nhất khứ lục thập lý,
Du du giang thuỷ trường.
Phù vân liên Ngũ Lĩnh,
Minh nguyệt hội Tam Tương.
Biệt phố phân tân sắc,
Dao không thất cố hương.
Hạc lai nhân bất kiến,
Vãn thụ uất thương thương.

Dịch nghĩa

Đi một mạch sáu mươi dặm
Nước sông chảy dài dằng dặc
Mây nổi nối liền dãy Ngũ Lĩnh
Trăng sáng tụ lại vùng Tam Tương
Phố xa chia sắc đẹp mới
Trời vòi vọi làm mất cố hương
Hạc trở lại nhưng không thấy người cưỡi hạc
Cây buổi tối chứa lạnh lẽo

Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1

好修人去二千載,
此地猶聞蘭芷香。
宗國三年悲放逐,
楚詞萬古擅文章。
魚龍江上無殘骨,
杜蒻洲邊有眾芳。
極目傷心何處是,
秋風落木過沅湘。

Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1

Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,
Thử địa do văn lan chỉ hương.
Tông quốc tam niên bi phóng trục,
Sở từ vạn cổ thiện văn chương.
Ngư long giang thượng vô tàn cốt,
Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương.
Cực mục thương tâm hà xứ thị,
Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương.

Dịch nghĩa

Người hiếu tu sống cách hai nghìn năm,
Ngày nay đất này còn thơm mùi hoa chỉ, hoa lan.
Xa quê ba năm buồn phiền vì bị tống xuất,
Nghìn đời sau thơ của ông vẫn hay nhất.
Rồng cá đầy sông cốt tìm chẳng thấy,
Bên bờ Đỗ nhược có giống cỏ thơm.
Nhướng mắt đau lòng không biết là đâu,
Gió thu lá rụng khi qua vùng Nguyên, Tương.

Biện Giả 辯賈 • Bác Giả Nghị

不涉湖南道,
安知湘水深。
不讀懷沙賦,
安識屈原心。
屈原心湘江水,
千秋萬秋清見底。
古今安得同心人,
賈生一賦徒為耳。
烈女從來不二夫,
何得栖栖相九州。
未必古人知有我,
眼中湘水空悠悠。

Biện Giả

Bất thiệp Hồ Nam đạo,
An tri Tương Thuỷ thâm?
Bất độc Hoài sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm?
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thuỷ,
Thiên thu vạn thu thanh kiến để.
Cổ kim an đắc đồng tâm nhân,
Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ.
Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,
Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”.
Vị tất cổ nhân tri hữu ngã,
Nhãn trung Tương Thuỷ, không du du!

Dịch nghĩa

Không đi qua Hồ Nam
Sao biết sông Tương sâu
Không đọc phú Hoài sa
Sao hiểu lòng Khuất Nguyên
Lòng Khuất Nguyên, nước sông Tương
Nghìn thu vạn thu trong suốt thấy đáy
Xưa nay mấy ai có được bạn đồng tâm
Bài phú của thư sinh họ Giả chẳng có nghĩa lý gì
Liệt nữ xưa nay không lấy hai chồng
Cần gì phải tất tả đi khắp chín châu tìm vua khác
Chưa chắc người xưa biết có ta
Trong mắt sông Tương dằng dặc trôi

Trường Sa Giả thái phó 長沙賈太傅

絳灌武人何所知,
孝文澹泊憚更為。
立談不展平生學,
事職何妨至死悲。
天降奇才無用處,
日斜異物有來時。
湘潭咫尺相鄰近,
千古相逢兩不違。

Trường Sa Giả thái phó

Giáng Quán võ nhân hà sở tri,
Hiếu Văn đạm bạc đạn canh vi.
Lập đàn bất triển bình sinh học,
Sự chức hà phương chí tử bi.
Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ,
Nhật tà dị vật hữu lai thì.
Tương Đàm chỉ xích tương lân cận,
Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi.

Dịch nghĩa

Giáng Hầu, Quán Anh là những kẻ võ biền có biết gì
Vua Hiếu Văn không tha thiết gì, sợ thay đổi
Đứng suông mà bàn luận không thể bày tỏ cái học cả đời mình
Làm tròn chức phận có gì mà phải chịu chết đau thương
Trời cho tài lạ mà không có chỗ dùng
Chiều tà vật quái dị có lúc đến
Tương Đàm gần gũi trong gang tấc
(Sống cách nhau) nghìn năm, gặp gỡ, cả hai đâu có gì trái nghịch

Sơ thu cảm hứng kỳ 1 初秋感興其一

蕭蕭木落楚江空,
無限傷心一夜中。
白髮生憎班定遠,
玉門關外老秋風。

Sơ thu cảm hứng kỳ 1

Tiêu tiêu mộc lạc Sở giang không,
Vô hạn thương tâm nhất dạ trung.
Bạch phát sinh tăng Ban định viễn,
Ngọc Môn Quan ngoại lão thu phong.

Dịch nghĩa

Sông Sở hoang vắng lá cây rụng bời bời
Trong một đêm xiết bao đau lòng
Ban Định Viễn ghét tóc trắng mọc ra
Ở ngoài cửa Ngọc môn, già với gió thu

Sơ thu cảm hứng kỳ 2 初秋感興其二

江上西風木葉稀,
寒蟬終日噪高枝。
其中自有清商調,
不是愁人不許知。

Sơ thu cảm hứng kỳ 2

Giang thượng tây phong mộc diệp hy,
Hàn thiền chung nhật táo cao chi.
Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu,
Bất thị sầu nhân bất hứa tri.

Dịch nghĩa

Gió tây thổi trên sông lá cây thưa thớt
Ve sầu lạnh suốt ngày kêu trên cành cao
Trong tiếng kêu có điệu thanh thương
Không phải người buồn thì không biết được

Sở vọng 楚望 • Trông vời đất Sở

荊襄千里古名都,
一半襟江一帶湖。
天假富彊供百戰,
地留缺陷限三吳。
秋風落日皆鄉望,
流水浮雲失霸圖。
孫索劉分何處在,
蒼然一望盡平蕪。

Sở vọng

Kinh, Tương thiên lý cổ danh đô,
Nhất bán khâm giang nhất đới hồ.
Thiên giả phú cường cung bách chiến,
Địa lưu khuyết hãm hạn Tam Ngô.
Thu phong lạc nhật giai hương vọng,
Lưu thuỷ phù vân thất bá đồ.
Tôn sách Lưu phân hà xứ tại,
Thương nhiên nhất vọng tẫn bình vu.

Dịch nghĩa

Kinh, Tương nghìn dặm hai đất kinh đô nổi tiếng thời xưa
Một nửa sông bao quanh, một nửa là hồ
Trời cho giàu mạnh, đem cung ứng cho chiến tranh trăm trận
Đất để chừa khoảng trống giới hạn Tam Ngô
Gió thu lúc mặt trời lặn ngóng quê nhà
Nước trôi mây nổi, sạch hết mưu đồ làm bá làm vua
Đâu rồi đất Tôn Quyền tranh giành với Lưu Bị ?
Trông chỉ thấy xanh um một vùng cỏ hoang

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 1 耒陽杜少陵墓其一 

天古文章天古師,
平生佩服未常離。
耒陽松柏不知處,
秋浦魚龍有所思。
異代相憐空灑淚,
一窮至此豈工詩。
掉頭舊症醫痊未,
地下無令鬼輩嗤。

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 1

Thiên cổ văn chương thiên cổ si (sư),
Bình sinh bội phục vị thường ly.
Lỗi Dương tùng bách bất tri xứ,
Thu phố ngư long hữu sở ti (tư).
Dị đại tương liên không sái lệ,
Nhất cùng chí thử khởi công thi?
Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị?
Địa hạ vô linh quỷ bối xi.

Dịch nghĩa

Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời
Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt
Cây tùng cây bá ở Lỗi Dương, không biết ở nơi nào?
Cá rồng trong bến thu, còn có chỗ để tưởng nhớ
Ở hai thời đại khác nhau, thương nhau, luống lơi lệ
Cùng khổ đến thế há phải bởi tại thơ hay?
Chứng bệnh lắc đầu ngày trước, bây giờ đã khỏi chưa?
Dưới địa phủ đừng để cho lũ quỷ cười.

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 2 耒陽杜少陵墓其二

每讀儒冠多誤身,
天年一哭杜陵人。
文章光燄成何用,
男女呻吟不可聞。
共羨詩名師百世,
獨悲異域寄孤墳。
扁舟江上多秋思,
悵望耒陽日暮雲。

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 2

Mỗi độc nho quan đa ngộ thân,
Thiên niên nhất khốc Ðỗ Lăng nhân.
Văn chương quang diệm thành hà dụng,
Nam nữ thân ngâm bất khả văn.
Cộng tiển thi danh sư bách thế,
Ðộc bi dị vực ký cô phần.
Biên chu giang thượng đa thu tứ,
Trướng vọng Lỗi Dương nhật mộ vân.

Tương Âm dạ 湘陰夜 • Đêm ở Tương Âm

滿目皆秋色,
滿江皆月明。
寂寥今夜望,
遷謫古人情。
秋水從西來,
茫然通洞庭。
靜夜息吟啸,
無使蛟龍驚。

Tương Âm dạ

Mãn mục giai thu sắc
Mãn giang giai nguyệt minh
Tịch liêu kim dạ vọng
Thiên trích cổ nhân tình
Thu thủy tòng tây lai
Mang nhiên thông Động Đình
Tĩnh dạ tức ngâm khiếu
Vô sử giao long kinh.

Đăng Nhạc Dương lâu 登岳陽樓 • Lên lầu Nhạc Dương

危樓峙高岸,
登臨何壯哉。
浮雲三楚盡,
秋水九江來。
往事傳三醉,
故鄉空一涯。
西風倚孤檻,
鴻雁有餘哀。

Đăng Nhạc Dương lâu

Nguy lâu trĩ cao ngạn,
Đăng lâm hà tráng tai!
Phù vân Tam Sở tận,
Thu thuỷ Cửu giang lai.
Vãng sự truyền tam tuý,
Cố hương không nhất nhai.
Tây phong ỷ cô hạm,
Hồng nhạn hữu dư ai!

Dịch nghĩa

Lầu cao ngất sừng sững trên bờ cao
Lên cao nhìn xuống, cảnh thật hùng tráng
Mây nổi khắp vùng Tam Sở
Nước thu từ chín sông đổ về
Truyện xưa truyền lại (Lã Đồng Tân) đã say ba lần ở đây
Quê hương một góc trời không
Gió tây thổi, một mình dựa lan can
Chim hồng chim nhạn kêu thêm buồn

Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ đến bạn những tuyệt phẩm vang danh của Nguyễn Du trong tập thơ Bắc Hành Tạp Lục vang danh được đông đảo bạn đọc yêu thích. Qua đó ta thêm phần ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa cùng những giá trị sâu sắc mà những thi phẩm mang lại. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 3