Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 2
Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, ta không thể quên nhắc đến tập thơ Bắc Hành Tạp Lục nổi tiếng. Ông là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông. Bắc hành tạp lục 1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm đi sâu vào tâm hồn bạn đọc. Nối tiếp phần 1, mời quý độc giả hãy cùng cảm nhận phần 2 ngay bây giờ nhé!
Hoàng Sào binh mã 黃巢兵馬
大小花山數里分,
黃巢遺蹟在江津。
豈知金統秦中帝,
乃出孫山榜外人。
誤國每因拘限量,
窮時自可變風雲。
遠來擬問千年事,
舡戶搖頭若不聞。Hoàng Sào binh mã
Đại tiểu Hoa Sơn sổ lý phân,
Hoàng Sào di tích tại giang tân.
Khởi tri Kim Thống Tần trung đế,
Nãi xuất Tôn Sơn bảng ngoại nhân.
Ngộ quốc mỗi nhân câu hạn lượng,
Cùng thì tự khả biến phong vân.
Viễn lai nghĩ vấn thiên niên sự,
Hang hộ dao đầu nhược bất văn.Dịch nghĩa
Núi Hoa Sơn lớn nhỏ cách nhau vài dậm
Trên bến sông hãy còn di tích Hoàng Sào
Há biết vua Kim Thống đất Tấn
Lại là người đi thi bị đánh rớt
Đôi khi chỉ vì câu nệ, hẹp hòi mà làm lỡ việc nước.
Con người ta đến lúc cùng có thể làm biến gió đổi mây.
Ta từ xa đến, muốn hỏi chuyện nghìn năm cũ.
Nhưng ông lái đò lắc đầu như không nghe thấy!
Vọng Quan Âm miếu 望觀音廟
伊誰絕境構亭臺,
代盡松枝墜鶴胎。
石穴何年初鑿破,
金身削夜卻飛來。
停雲處處僧眠定,
落口山山猿咡哀。
一炷檀香消慧業,
回頭已隔萬重崖。Vọng Quan Âm miếu
Y thuỳ tuyệt cảnh cấu đình đài,
Phạt tận tùng chi trụy hạc thai.
Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá,
Kim thân tiền dạ khước phi lai.
Ðình vân xứ xứ tăng miên định,
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai.
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp,
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai.Dịch nghĩa
Ai người dựng nên đình đài ở chốn tận cùng này?
Chặt hết cành tùng, rớt trứng hạc
Hang đá, năm nào bắt đầu đục phá?
Tượng Phật (mình vàng) (1) mới bay đến đêm qua (2)
Khắp chốn mây ngừng trôi, sư yên giấc
Núi núi bóng chiều rơi, vượn kêu thương
Ðốt nén hương đàn để tiêu tan nghiệp chướng do trí tuệ gây ra
Quay đầu lại đã cách núi muôn trùng
Tam Giang khẩu đường dạ bạc 三江口塘夜泊
西粵重山一水分,
兩山相對石磷峋。
猿啼樹杪若無路,
犬吠林中知有人。
四望雲山人獨老,
同舟胡越各相親。
十年已失還鄉路,
邢得家鄉入夢頻。Tam Giang khẩu đường dạ bạc
Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân
Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân
Viên đề thụ diểu nhược vô lộ
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão
Ðồng chu Hồ Việt các tương lân
Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ
Ná đắc gia hương nhập mộng tần.Dịch nghĩa
Nơi núi non trập trùng ở Tây Việt, một dòng nước chia hai
Hai ngọn núi đối nhau, đá chồng chất
Vượn hú trên ngọn cây, tưởng như không có đường đi
Chó sủa trong rừng, biết là có người
Nhìn bốn bề đều là mây và núi, chỉ có người thấy già
Cùng thuyền, người Hồ kẻ Việt thân thiết với nhau
Mười năm đã mất đường về làng cũ
Sao được quê nhà đi vào trong mộng.
Vãn há Đại Than, tân lạo bao trướng, chư hiểm câu thất 晚下大灘新潦暴漲諸俱失
銀河昨夜自天傾,
江水茫茫江岸平。
未信鬼神能相佑,
盡教龍虎失精靈。
平居不會講忠信,
到處無妨薺死生。
更有險巇饒十倍,
吾將何以叩神明。Vãn há Đại Than, tân lạo bao trướng, chư hiểm câu thất
Ngân hà tạc dạ tự thiên khuynh,
Giang thuỷ mang mang giang ngạn bình.
Vị tín quỉ thần năng tướng hựu,
Tẫn giao long hổ thất tinh linh.
Bình cư bất hội giảng trung tín,
Ðáo xứ vô phương tề tử sinh.
Cánh hữu hiểm hy nhiêu thập bội,
Ngô tương hà dĩ khấu thần minh.Dịch nghĩa
Ðêm qua sông Ngân từ trời đổ xuống
Nước sông mênh mông, bờ sông ngập bằng
Chưa tin quỉ thần có thể giúp được gì
Ngay cả rồng cọp cũng hết linh thiêng
Ngày thường không thấu hiểu hai chữ “trung tín”
Thì đến đâu cũng không giải quyết được vấn đề “sống và chết”
Trên đường đi, sau này còn có chỗ hiểm nguy gấp mười
Ta sẽ lấy gì để cầu xin với thần minh?
Há than hỷ phú 下灘喜賦
心香拜禱將軍祠,
一掉中流肆所之。
到處江山如識趣,
喜人蛇虎不施威。
萬株松樹僧人屋,
一帶寒煙燕子磯。
寂寂船窗無箇事,
漁歌江上看斜暉。Há than hỷ phú
Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ (từ),
Nhất trạo trung lưu tứ sở chi.
Ðáo xứ giang sơn như thức thú,
Hỷ nhân xà hổ bất thi uy.
Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc,
Nhất đới hàn yên Yến Tử ky (cơ).
Tịch tịch thuyền song vô cá sự,
Ngư ca giang thượng khán tà huy.Dịch nghĩa
Tấm lòng thành dâng hương khấn trước đền tướng quân
Một thuyền giữa dòng nước mặc cho trôi đi
Ðến đâu cũng thấy sông núi như đã quen biết
Mừng cho người, hùm rắn đã không ra oai
Muôn cụm tùng kia là nơi nhà sư ở
Một dải khói lạnh, đó là Hòn Én
Lặng lẽ ngồi bên cửa thuyền, không làm gì cả
Nghe thuyền chài hát, ngắm chiều tà
Thái Bình thành hạ văn xuy địch 太平城下聞吹笛
太平城外西風起,
吹皺寧明一江水。
江水皺兮江月寒,
誰家橫笛憑欄杆。
二十七人共回首,
故鄉已隔萬重山。Thái Bình thành hạ văn xuy địch
Thái Bình thành ngoại tây phong khởi,
Xuy trừu Ninh Minh nhất giang thuỷ.
Giang thuỷ trừu hề giang nguyệt hàn,
Thuỳ gia hoành địch bằng lan can.
Nhị thập thất nhân cộng hồi thủ,
Cố hương dĩ cách vạn trùng san.Dịch nghĩa
Ngoài thành Thái Bình gió tây thổi lên
Làm cho nước sông Ninh Minh gợn sóng
Nước sông gợn sóng, trăng sông lạnh
Có người nào tựa lan can thổi sáo
Khiến cho hai mươi bảy người trong đoàn đều quay lại nhìn
Nhưng cố hương đã cách muôn trùng núi non!
Thái Bình mại ca giả 太平賣歌者
太平瞽師粗布衣,
小兒牽挽行江湄。
云是城外老乞子,
賣歌乞錢供晨炊。
鄰舟時有好音者,
牽手引上船窗下。
此時船中暗無燈,
棄飯潑水殊狼藉。
摸索引身向坐隅,
再三舉手稱多謝。
手挽弦索口作聲,
且彈且歌無暫停。
可音殊異不得辨,
但覺嘹喨殊可聽。
舟子寫字為余道,
此曲世民與建成。
觀者十數並無語,
但見江風蕭蕭江月明。
口噴白沫手酸縮,
卻坐斂弦告終曲。
殫盡心力幾一更,
所得銅錢僅五六。
小兒引待下船來,
猶且回顧禱多福。
我乍見之悲且辛,
凡人愿死不愿貧。
只道中華盡溫飽,
中華亦有如此人。
君不見使船朝來供頓例,
一船一船盈肉米。
行人飽食便棄餘,
殘肴泠飯沉江底。Thái Bình mại ca giả
Thái Bình cổ sư thô bố y
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi
Vân thị thành ngoại lão khất tử
Mại ca khất tiền cung thần xuy
Lân chu thời hữu hiếu âm giả
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ
Thử thời thuyền trung ám vô đăng
Khí phạn bát thuỷ thù lang tạ
Mô sách dẫn thân hướng toạ ngung
Tái tam cử thủ xưng đa tạ
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh
Thả đàn thả ca vô tạm đình
Thanh âm thù dị bất đắc biện
Ðãn giác liêu lượng thù khả thinh
Chu tử tả tự vị dư đạo
Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành
Quan giả thập số tịnh vô ngữ
Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc
Khước toạ, liễm huyền, cáo chung khúc
Ðàn tận tâm lực cơ nhất canh
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ
Hành nhân bão thực tiện khí dư
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.Dịch nghĩa
Ở phủ Thái Bình có người mù mặc áo vải thô
Có đứa trẻ dẫn đi bờ sông
Nói rằng ông già ăn xin ở ngoài thành
Hát mướn xin tiền nấu ăn
Thuyền bên có người ưa nghe hát
Cầm tay dẫn xuống thuyền dưới cửa sổ
Lúc này trong thuyền tối không đèn
Cơm thừa canh cặn đổ bừa bãi
Ông già lần mò ngồi vào một góc
Hai ba lần giơ tay xin cám ơn
Tay nắn dây đàn, miệng cất tiếng hát
Vừa đàn vừa ca không nghỉ
Tiếng nghe lạ hoắc không hiểu được
Chỉ thấy như chim hót trong trẻo tai dễ nghe
Nhà thuyền viết chữ bảo ta rằng:
Khúc hát này nói về Thế Dân và Kiến Thành
Người nghe khoảng chục người đều im lặng
Chỉ thấy gió sông vi vu dưới trăng sáng
Miệng sùi nước bọt, tay mỏi rã rời
Ngồi xuống, xếp đàn, nói rằng hát đã xong
Hết lòng hết sức đàn gần một trống canh
Văy mà chỉ đuợc năm sáu đòng
Ðứa em dẫn ra khỏi thuyền
Còn quay đầu lại chúc lành
Chợt thấy ta bồi hồi thương xót
Phàm nguuời ta thà chết hơn sống nghèo
Nghe nói ở Trung Hoa mọi người đều được ấm no
Ở Trung Hoa cũng có người nghèo như thế sao
Anh không thấy lệ cung phụng thuyền đi sứ mỗi ngày
Từng thuyền từng thuyền thịt gạo đày
Người đi thuyền ăn no, thừa vứt bỏ
Cơm nguội, thức ăn đổ chìm xuống đáy sông
Chu hành tức sự 舟行即事
西粵山川多險巇,
行行從此向天涯。
崩崖怪石怒相向,
水馬沙擒狎不飛。
天地扁舟浮似葉,
文章殘息弱如絲。
為憐上國風光好,
關鎖鄉情未放歸。Chu hành tức sự
Tây Việt sơn xuyên đa hiểm hy,
Hành hành tòng thử hướng thiên nhi (nhai).
Băng nhai quái thạch nộ tương hướng,
Thuỷ điểu sa cầm hiệp bất phi.
Thiên địa biên chu phù tự diệp,
Văn chương tàn tức nhược như ty.
Vị liên thượng quốc phong quang hảo,
Quan toả hương tình vị phóng quy.Dịch nghĩa
Núi sông Tây Việt nhiều hiểm trở
Từ đây cứ đi về hướng chân trời
Bờ núi lở, đá hình quái dị giận dữ nhìn nhau
Chim nước cò bờ dạn dĩ không bay khi thấy người
Chiếc thuyền con như chiếc là nổi giữa đất trời
Hơi tàn văn chương tàn yếu như sợi tơ
Vì yêu phong cảnh đẹp của thượng quốc
Nên khoá tình quê lại, chưa thả cho về
Sơn Đường dạ bạc 山塘夜泊
午夢醒來晚,
斜日掩窗扉。
風勁維船早,
山高得月遲。
倚篷千里望,
合眼隔年思。
莫近蒼岸宿,
啼猿徹夜悲。Sơn Đường dạ bạc
Ngọ mộng tỉnh lai vãn,
Tà nhật yểm song phi.
Phong kính duy thuyền tảo,
Sơn cao đắc nguyệt trì.
Ỷ bồng thiên lý vọng,
Hợp nhãn cách niên ty (tư).
Mạc cận thương nhai túc,
Ðề viên triệt dạ bi.Dịch nghĩa
Nằm ngủ trưa, tỉnh dậy thì đã muộn
Bóng chiều dọi vào phải khép cửa sổ lại.
Gió thổi mạnh, phải neo thuyền sớm
Núi cao, thật lâu mới thấy trăng
Dựa mui thuyền trông ra xa nghìn dặm
Chớp mắt, nghĩ đã xa nhà một năm rồi
Chớ đỗ thuyền lại gần núi xanh
Tiếng vượn hú sẽ làm ta buồn suốt đêm
Thương Ngô tức sự 蒼梧即事
虞帝南巡更不還,
二妃洒淚竹成班。
悠悠陳跡千年上,
歷歷群書一望間。
新潦初添三尺水,
浮雲不辨九疑山。
尋聲遙謝琵琶語,
千里青山不耐旋。Thương Ngô tức sự
Ngu đế nam tuần cánh bất hoàn,
Nhị phi sái lệ trúc thành ban.
Du du trần tích thiên niên thượng,
Lịch lịch quần thư nhất vọng gian.
Tân lạo sơ thiêm tam xích thuỷ,
Phù vân bất biện Cửu Nghi san,
Tầm thanh dao tạ tỳ bà ngữ.
Thiên lý thanh sam bất nại hàn.Dịch nghĩa
Vua Ngu đi tuần phương nam chẳng trở về.
Hai bà phi khóc, nước mắt vương vào cây trúc thành những vệt lốm đốm.
Dấu cũ nghìn xưa ghi trong sử sách,
Nay nhìn thấy rõ trước mắt.
Nước lũ mới đổ về cao hơn ba thước,
Mây che khuất không nhìn rõ núi Cửu Nghi.
Nghe vẳng tiếng tỳ bà nhưng phải từ tạ,
Kẻ mặc áo xanh này từ nghìn dậm đến, không chịu lạnh nổi.
Thương Ngô mộ vũ 蒼梧暮雨
雨滯潯江曉發遲,
梧城薄暮尚霏霏。
一江新潦平三楚,
大半浮雲駐九疑。
窄窄小舟難過夏,
鬖鬖長髮自知夷。
平波日暮湘潭遠,
杯酒憑欄弔二妃。Thương Ngô mộ vũ
Vũ trệ Tầm giang hiểu phát trì,
Ngô thành bạc mộ thượng phi phi.
Nhất giang tân lạo bình Tam Sở,
Ðại bán phù vân trú Cửu Nghi.
Trách trách tiểu chu nan quá Hạ,
Sam sam trường phát tự tri Di.
Bình ba nhật mộ Tương Đàm viễn,
Bôi tửu bằng lan điếu nhị phi.Dịch nghĩa
Trời mưa phải dừng lại ở sông Tầm, lúc sáng khởi hành muộn.
Gần chiều, trên thành Thương Ngô vẫn còn mưa tầm tã.
Lũ mới đổ về, nước sông tràn ngập đất Sở,
Phần lớn mây bao trùm núi Cửu Nghi,
Ta ngồi trong thuyền nhỏ chật hẹp khó qua được đất Hạ (hoa hạ),
Búi tóc dài nói rõ ta là người nước khác (di).
Sóng lặng trời tối mà Tương Đàm còn xa,
Đành rót rượu viếng hai bà phi vậy.
Ngũ nguyệt quan cạnh độ 五月觀競渡
懷王歸葬張儀死,
楚國詞人記佩蘭。
天古招魂終不返,
滿江爭競太無端。
煙波渺渺空悲怨,
羅鼓年年自笑歡。
魂若歸來也無托,
龍蛇鬼蜮遍人間。Ngũ nguyệt quan cạnh độ
Hoài Vương qui táng, Trương Nghi tử,
Sở quốc từ nhân ký bội lan.
Thiên cổ chiêu hồn chung bất phản,
Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan.
Yên ba diểu diểu không bi oán,
La cổ niên niên tự tiếu hoan.
Hồn nhược quy lai dã vô thác,
Long xà quỷ vực biến nhân gian.Dịch nghĩa
Hoài Vương chết, đưa hài cốt về mai táng, Trương Nghi cũng chết.
Nhớ nhà thơ nước Sở đeo chùm hoa lan để tỏ phẩm chất của mình.
Ngàn năm gọi hồn, hồn vẫn không về.
Thuyền đua đầy sông, nào có ý nghĩa gì đâu!
Nhìn khói sóng mịt mù mà đau thương oán giận.
Hàng năm chiêng trống vẫn cứ bày trò vui như thế này đây.
Vả chăng hồn ông có về cũng không biết nương tựa vào đâu.
Khắp nhân gian nơi nơi đầy dẫy rắn rồng, quỷ quái.
Nguyễn Du là một thi sĩ vang danh của đất nước ta. Chặng đường sự nghiệp của ông luôn đam mê sáng tác. Những trang thơ của ông luôn giàu cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc đi vào tâm hồn bạn đọc. Đừng quên đồng hành cùng chúng tôi để theo dõi những thi phẩm nổi bật hơn nữa nhé!
Xem Thêm: Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 1
Tin cùng chuyên mục:
150+ Bài thơ thả thính Trai [Tuyệt Chiêu Tán Trai] Cực HOT
[HOT] 101+ bài thơ tỏ tình theo tên hay khiến Crush “đổ gục”
#199 Bài thơ tỏ tình Crush hay nhất làm “tan chảy” mọi trái tim
[Tuyển Tập] Thơ thả thính 2 câu Cưa Đổ Gái Xinh ngay từ lần đầu