Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 1

Bắc Hành Tạp Lục là một tập thơ hay và nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Du. Tập thơ gồm 132 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du sáng tác trong vòng 1 năm, từ tháng hai đến tháng chạp năm Quý Dậu (1813) khi ông cầm đầu một phái đoàn sang sứ Trung Quốc. Mở đầu quyển là bài cảm tác khi trở ra Thăng Long để lên đường sang Trung Quốc. Bài cuối làm khi trở về đến Võ Xương (Hồ Bắc), từ đó lên thuyền trở về, nên không có đề tài ngâm vịnh nữa. Thơ ghi chép những điều trông thấy, những cảm nghĩ dọc đường. Đây được xem là một tập thơ hay và thành công nhất của ông. Nếu bạn yêu thích thì hãy cùng chúng tôi khám phá nhé!

Long thành cầm giả ca 龍城琴者歌

龍城佳人,
不記名字。
獨善絃琴,
舉城之人以琴名。
學得先朝宮中供奉曲,
自是天上人間第一聲。
余在少年曾一見,
監湖湖邊夜開宴。
此時三七正芳年,
春風掩映桃花面。
酡顏憨態最宜人,
歷亂五聲隨手變。
緩如涼風度松林,
清如隻鶴鳴在陰。
烈如荐福碑頭碎霹靋,
哀如莊舄病中為越吟。
聽者靡靡不知倦,
盡是中和大內音。
西山諸臣滿座盡傾倒,
徹夜追歡不知曉。
左拋右擲爭纏頭,
泥土金錢殊草草。
豪華意氣凌公侯,
五陵年少不足道。
并將三十六宮春,
換取長安無賈寶。
此夕回頭二十年,
西山敗後余南遷。
咫尺龍城不復見,
何況城中歌舞莚。
宣撫使君為余重買笑,
席中歌妓皆年少。
席末一人髮半華,
顏醜神枯形略小。
狼藉殘眉不飾粧,
誰知便是當年城中第一調。
舊曲新聲暗淚垂,
耳中靜聽心中悲。
猛然億起二十年前事,
監湖湖邊曾見之。
城郭推移人事改,
幾度桑田變蒼海。
西山基業一旦盡消亡,
歌舞空留一人在。
瞬息百年曾幾時,
傷心往事淚沾衣。
南河歸來頭盡白,
怪底佳人顏色衰。
雙眼瞪瞪空想像,
可憐對面不相知。

Long thành cầm giả ca

Long thành giai nhân,
Bất ký danh tự.
Ðộc thiện huyền cầm,
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến,
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.
Thử thời tam thất chánh phương niên,
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện.
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân,
Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến.
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm,
Thanh như chích hạc minh tại âm.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm.
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện,
Tận thị Trung Hoà Ðại Nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng công hầu,
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo.
Tính tương tam thập lục cung xuân,
Hoán thủ Trường An vô giá bảo.
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,
Hà huống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan xú thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn my bất sức trang,
Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu.
Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ độ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,
Ca vũ không lưu nhất nhân tại.
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
Nam Hà quy lai đầu tận bạch,
Quái để giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,
Khả liên đối diện bất tương tri.

Dịch nghĩa

Người đẹp Long Thành
Họ tên không được biết
Riêng thạo đàn huyền cầm
Dân trong thành gọi nàng là cô Cầm
Gảy khúc “Cung phụng” từ triều vua xưa
Một khúc đàn hay tuyệt từ trời đưa xuống thế gian.
Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần
Bên hồ Giám trong một đêm yến tiệc
Tuổi cô cỡ hai mươi mốt
Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa
Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái
Ngón tay lướt năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông
Thanh trong như đôi hạc kêu nơi xa xôi
Mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm ngâm rên tiếng Việt
Người nghe nàng say sưa không biết mệt
Trong khúc nhạc đại nội Trung Hoà.
Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả
Lo vui chơi suốt đêm không nghỉ
Bên phải bên trái tranh nhau cho thưởng
Tiền bạc coi thường có nghĩa chi.
Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu
Giới trẻ nơi Ngũ Lăng không đáng kể
Dường như ba mươi sáu cung xuân
Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá.
Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm
Tây sơn thua bại, tôi vào Nam
Long Thành gần mà cũng chẳng được thấy
Còn nói chi đến chuyện múa hát trong thành.
Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đãi tôi
Ca kỹ trẻ xinh cả một đám
Chỉ có một kẽ tóc hoa râm ngồi cuối phòng
Mặt xấu, sắc khô, người hơi nhỏ
Mày phờ phạc không điểm phấn tô son
Sao mà đoán được người này là đệ nhất danh ca một thời.
Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
Lắng tai nghe lòng càng đau xót
Tự nhiên nhớ lại hai mươi năm trước
Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta đã thấy nàng
Thành quách đã chuyển, người cũng đổi thay
Nương dâu trở thành biển cả đã nhiều
Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán
Sót lại đây còn người múa ca.
Thấm thoắt trăm năm có là bao
Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng
Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn.
Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa
Thương cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau.

Thăng Long kỳ 1 昇龍其一

傘嶺瀘江歲歲同,
白頭猶得見昇龍。
千年巨室成官道,
一片新城沒故宮。
相識美人看抱子,
同遊俠少盡成翁。
關心一夜苦無睡,
短笛聲聲明月中。

Thăng Long kỳ 1

Tản lĩnh Lô giang tuế tuế đồng,
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long.
Thiên niên cự thất thành quan đạo,
Nhất phiến tân thành một cố cung.
Tương thức mỹ nhân khan bão tử,
Ðồng du hiệp thiếu tẫn thành ông.
Quan tâm nhất dạ khổ vô thuỵ,
Ðoản địch thanh thanh minh nguyệt trung.

Dịch nghĩa

Núi Tản sông Lô bao nhiêu năm vẫn thế
Đầu đã bạc rồi mà lại thấy Thăng Long
Những ngôi nhà đồ sộ ngày xưa nay đã thành đường cái quan.
Dãi thành mới làm mất cung điện xưa
Các mỹ nhân ngày trước giờ đã có con bồng
Các bạn hào hiệp thuở xưa giờ đã thành ông
Suốt đêm nghĩ ngơi, thao thức không ngủ
Văng vẳng nghe tiếng sáo trong ánh trăng

Thăng Long kỳ 2 昇龍其二

古時明月照新城,
猶是昇龍舊帝京。
衢巷四開迷舊跡,
管弦一變雜新聲。
千年富貴供爭奪,
早歲親朋半死生。
世事浮沉休嘆息,
自家頭白亦星星。

Thăng Long kỳ 2

Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Do thị Thăng Long cựu đế kinh.
Cù hạng tứ khai mê cựu tích,
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.
Thiên niên phú quí cung tranh đoạt,
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.
Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh.

Dịch nghĩa

Mảnh trăng ngày trước soi xuống ngôi thành mới,
Đây vẫn là Thăng Long, đế kinh của các triều vua xưa.
Đường xá dọc ngang, xoá mất dấu vết cũ,
Tiếng đàn sáo cũng đổi khác, lẫn nhiều âm thanh mới.
Nghìn năm phú quý vẫn làm mồi cho sự tranh đoạt,
Bạn bè lúc nhỏ, kẻ còn người mất.
Thôi, đừng than thở cho cảnh đời chìm nổi,
Mái tóc ta đây cũng bạc rồi.

Ngộ gia đệ cựu ca cơ 遇家弟舊歌姬 

繁華人物亂來非,
玄鶴歸來幾個知。
紅袖曾聞歌宛轉,
白頭相見哭流離。
覆盆已矣難收水,
斷藕傷哉未絕絲。
見說嫁人已三子,
可憐猶著去時衣。

Ngộ gia đệ cựu ca cơ

Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Huyền hạc quy lai kỷ cá tri.
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển,
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly.
Phúc bồn dĩ hĩ nan thâu thuỷ,
Ðoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ty.
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,
Khả liên do trước khứ thời y.

Dịch nghĩa

Sau buổi loạn lạc, nhân vật nơi chốn phồn hoa đã khác xưa.
Con chim hạc đen bay trở lại, nào mấy ai biết?
Ta từng nghe giọng ca uyển chuyển của nàng lúc xưa mặc áo hồng.
Nay đầu đã bạc, mới gặp lại nhau, nghe nàng than thở nỗi lưu ly.
Chậu nước đã đổ rồi, khó lòng vét lại.
Thương cho ngó sen đã đứt mà tơ vẫn còn vương.
Nghe nói nàng đã có chồng và đã có ba con.
Ái ngại thay nàng vẫn phải mặc cái áo xưa (vẫn làm ca cơ).

Quỷ Môn quan 鬼門關 • Ải Quỷ Môn

連峰高插入青雲,
南北關頭就此分。
如此有名生死地,
可憐無數去來人。
塞途叢莽藏蛇虎,
布野煙嵐聚鬼神。
終古寒風吹白骨,
奇功何取漢將軍。

Quỷ Môn quan

Liên phong cao sáp nhập thanh vân,
Nam bắc quan đầu tựu thử phân.
Như thử hữu danh sinh tử địa,
Khả liên vô số khứ lai nhân.
Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ,
Bố dã yên lam tụ quỷ thần.
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt,
Kỳ công hà thủ Hán tướng quân.

Dịch nghĩa

Núi liên tiếp, cao vút tận mây xanh.
Nam bắc chia ranh giới ở chỗ này
Là nơi nổi tiếng nguy hiểm đến tính mạng.
Thương thay, bao nhiêu ngươì vẫn phải đi về qua đây.
Bụi gai lấp đường, mãng xà, hổ tha hồ ẩn nấp.
Khí độc đầy đồng, quỷ thần mặc sức tụ họp.
Từ thuở xa xưa, gió lạnh đã thổi bao đống xương trắng.
Chiến công của tướng nhà Hán có gì đáng khen!

Lạng thành đạo trung 諒城道中 • Trên đường đi Lạng thành

群峰湧浪石鳴濤,
蛟有幽宮鵑有巢。
泉水合流江水闊,
子山不及母山高。
團城雲石夕相侯,
鴻嶺親朋日漸遙。
怪得柔情輕割斷,
筐中攜有筆如刀。

Lạng thành đạo trung

Quần phong dũng lãng thạch minh đào,
Giao hữu u cung, quyên hữu sào.
Tuyền thuỷ hợp lưu giang thuỷ khoát,
Tử sơn bất cập Mẫu sơn cao.
Ðoàn thành vân thạch tịch tương hậu,
Hồng lĩnh thân bằng nhật tiệm dao.
Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn,
Khuông trung huề hữu bút như đao.

Dịch nghĩa

Núi non trập trùng, gió thổi vào đá, nghe như sóng vỗ.
Ở đây, thuồng luồng có hang kín, đỗ quyên cũng có tổ.
Nước suối ở đây hợp lại thành sông rộng.
Núi con không cao bằng núi mẹ.
Mây đá Đoàn thành chiều hôm nay như có ý đợi ta.
Thân bằng cố hữu ở núi Hồng Lĩnh càng ngày càng xa cách.
Quái lạ, nỗi nhớ nhung lại dễ cắt đứt.
Khi tráp có ngọn bút thay đao (để khuây khoả).

Lưu biệt cựu khế Hoàng 留別舊契黃

卅年故友重逄日,
萬里前途一蹴初。
道路日來情未竟,
雲山別後意何如。
悵然分手重關外,
佬矣全身百戰餘。
他日南歸相會訪,
六頭江上有樵漁。

Lưu biệt cựu khế Hoàng

Táp niên cố hữu trùng phùng nhật,
Vạn lý tiền đồ nhất xúc sơ.
Ðạo lộ nhật lai tình vị cánh,
Vân sơn biệt hậu ý hà như.
Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại,
Lão hỷ toàn thân bách chiến dư.
Tha nhật Nam qui tương hội phỏng,
Lục Ðầu giang thượng hữu tiều ngư.

Dịch nghĩa

Ngày gặp lại người bạn cũ của ba mươi năm trước.
Cũng là ngày tôi bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm.
Chưa kể hết những nỗi dọc đường những ngày gần đây.
Sau khi chia tay nhau ở chốn núi mây, ý bạn ra sao ?
Hai ta chia tay nhau ngoài cửa quan, lòng buồn khôn xiết.
Anh trải qua trăm trận đánh, thân thể vẹn toàn, nhưng nay đã già rồi.
Sau này trở về nước, gặp lại anh, hỏi thăm nhau.
Chắc bây giờ trên sông Lục Đầu, anh đã là một bác tiều phu, hay người đánh cá, cũng chưa biết chừng!

Trấn Nam Quan 鎮南關

李陳舊事杳難尋,
三百年來直到今。
兩國平分孤壘面,
一關雄鎮萬山心。
地偏每為傅聞誤,
天近纔知降澤深。
帝闕回頭碧雲表,
鈞韶耳畔有餘音。

Trấn Nam Quan

Lý Trần cựu sự diểu nan tâm,
Tam bách niên lai trực đáo câm (kim).
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện,
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm.
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ,
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm.
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu,
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm.

Dịch nghĩa

Việc cũ đời Lý, Trần xa xôi khó biết.
Chỉ biết cửa ải này có đến ngày nay đã ba trăm năm.
Bức thành lẻ loi phân chia hai nước,
Cửa ải hùng vĩ đứng trấn giữa muôn nghìn núi non.
Cách xa nhau, thường có những lời đồn đãi không đích xác, dễ hiểu lầm.
Gần trời mới biết ơn mưa móc thấm sâu dường nào.
Quay đầu trông về cửa khuyết ở ngoài tần mây biếc.
Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng nhạc quân thiều.

Nam Quan đạo trung 南關道中

玉書捧下五雲端,
萬里單車渡漢關。
一路偕來愯白髮,
二旬斫見但青山。
君恩似海毫無報,
春雨如膏骨自寒。
王道蕩平休問訊,
明江北上是長安。

Nam Quan đạo trung

Ngọc thư phủng há ngũ vân đoan,
Vạn lý đan xa độ Hán quan.
Nhất lộ giai lai duy bạch phát,
Nhị tuần sở kiến đãn thanh san.
Quân ân tự hải hào vô báo,
Xuân vũ như cao cốt tự hàn.
Vương đạo đãng bình hưu vấn tấn,
Minh Giang bắc thướng thị Trường An.

Dịch nghĩa

Chiếu của nhà vua từ tầng mây năm sắc ban xuống
Trên đường muôn dặm, chiếc xe lẻ loi vượt Hán quan.
Suốt dọc đường cùng ta chỉ có mái tóc bạc
Cả hai mươi ngày chỉ thấy một màu núi xanh
Ơn vua như biển chưa mảy may báo đáp
Mưa xuân như mỡ lạnh buốt xương
Ðường cái quan rộng rãi bằng phẳng, thôi hỏi thăm chi nữa
Theo dòng Minh Giang lên hướng bắc, ấy là Trường An

Mạc phủ tức sự 幕府即事

徹夜鑼聲不暫停,
孤燈相對到天明。
經旬去國心如死,
一路逢人面盡生。
山麓積泥深沒馬,
谿泉伏怪老成精。
客情至此已無限,
又是燕山萬里行。

Mạc phủ tức sự

Triệt dạ la thanh bất tạm đình,
Cô đăng tương đối đáo thiên minh.
Kinh tuần khứ quốc tâm như tử,
Nhất lộ phùng nhân diện tẫn sinh.
Sơn lộc tích nê thâm một mã,
Khê tuyền phục quái lão thành tinh.
Khách tình chí thử dĩ vô hạn,
Hựu thị Yên sơn vạn lý hành.

Dịch nghĩa

Suốt đêm, tiếng thanh la không ngớt.
Ta ngồi bên ngọn đèn cô đơn cho đến sáng.
Xa nước mấy tuần, lòng như chết.
Dọc đường gặp toàn người lạ.
Ở chân núi bùn ngập đến bụng ngựa.
Quái vật ẩn nấp hai bên bờ suối lâu ngày đã thành tinh.
Đến đây, tình cảm người viễn khách đã vô hạn rồi.
Huống chi cuộc hành trình đến Yên sơn (kinh đô) còn vạn dặm.

Giáp Thành Mã Phục Ba miếu 夾城馬伏波廟

六十老人筋力衰,
據鞍被甲疾如飛。
殿庭只慱君王笑,
鄉里寧知兄弟悲。
銅柱僅能欺越女,
珠車畢竟累家兒。
姓名合上雲臺畫,
猶向南中索歲時。

Giáp Thành Mã Phục Ba miếu

Lục thập lão nhân cân lực suy,
Cứ an bị giáp tật như phi.
Ðiện đình chỉ bác quân vương tiếu,
Hương lý ninh tri huynh đệ bi.
Đồng trụ cận năng khi Việt nữ,
Châu xa tất cánh luỵ gia nhi.
Tính danh hợp thướng Vân Đài hoạ,
Do hướng Nam trung sách tuế thì.

Dịch nghĩa

Người già tuổi sáu mươi thì gân sức suy.
Ông còn mặc giáp nhảy lên ngựa nhanh như bay.
Chỉ chuốc một nụ cười của nhà vua nơi cung điện.
Ðâu biết anh em nơi quê hương thương xót cho ông!
Cột đồng chỉ dối được đàn bà con gái Việt.
Chứ như xe ngọc châu chở về, thì lại để luỵ cho con cháu ông.
Tên tuổi ông (đáng lẽ) được ghi nơi bức hoạ Vân Ðài.
Sao lại đòi nước Nam hằng năm phải cúng tế ?

Minh giang chu phát 明江舟發 

簫鼓鼕鼕初出門,
萬山中斷一槎奔。
浮雲乍散右容瘦,
新潦初生江水渾。
別後關山思弟妹,
望中岩岫見兒孫。
日斜莫向華山過,
怕有聲聲腸斷猿。

Minh giang chu phát

Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn,
Vạn sơn trung đoạn nhất sà bôn.
Phù vân sạ tán thạch dung sấu,
Tân lạo sơ sinh giang thuỷ bồn.
Biệt hậu quan sơn tư đệ muội,
Vọng trung nham tụ kiến nhi tôn.
Nhật tà mạc hướng Hoa Sơn quá,
Phạ hữu thanh thanh trường đoạn vôn (viên).

Dịch nghĩa

Vừa ra khỏi cửa, tiếng tiêu, tiếng trống nổi lên ầm ầm.
Một chiếc thuyền vút nhanh giữa muôn ngọn núi.
Mây vừa tan, núi trông có vẻ gầy.
Lụt mới về, nước sông đụt ngầy.
Sau lúc chia biệt chỗ quan san, đã nhớ đến em trai, em gái
Nhìn giữa đá núi, tưởng chừng thấy con cháu
Lúc mặt trời xế bóng, đừng đi qua Hoa Sơn
Sợ nghe tiếng vượn kêu buồn đứt ruột

Ninh Minh giang chu hành 寧明江舟行

粵西山中多澗泉,
千年合注成一川。
自高襾下如潑天,
灘上何所聞。
應龍激怒雷田田,
灘下何所見。
弩機劇發矢離絃,
一瀉萬里無停堙。
高山夾岸如離垣,
中有怪石森森然。
有如龍蛇虎豹牛馬羅其前,
大者如屋小如拳。
高者如立低如眠,
直者如走曲如旋。
千形萬狀難盡言,
蛟螭出沒成重淵。
湧濤噴沫日夜爭豗喧,
夏潦初漲沸如煎。
一行三日心懸懸,
心懸懸多所畏。
危乎殆哉汨沒無底,
共道中華路坦平。
中華道中夫如是,
窩盤屈曲似人心。
危亡傾覆皆天意,
高才每被文章妒。
人肉最為魑魅喜,
風波邢得儘能平。
忠信到頭無足恃,
不信出門皆畏途。
試望滔滔此江水。

Ninh Minh giang chu hành

Việt Tây sơn trung đa giản tuyền,
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên.
Tự cao nhi hạ như bát thiên,
Than thượng hà sở văn?
Ưng long kích nộ lôi điền điền,
Than hạ hà sở kiến?
Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền,
Nhất tả vạn lý vô đình yên.
Cao sơn giáp ngạn như tường viên,
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên.
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền,
Ðại giả như ốc, tiểu như quyền.
Cao giả như lập, đê như miên,
Trực giả như tẩu, khúc như tuyền.
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn,
Giao ly xuất một thành trùng uyên.
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyền,
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền,
Tâm huyền huyền đa sở uý.
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để,
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình.
Trung Hoa đạo trung phù như thị,
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm.
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý,
Cao tài mỗi vị văn chương đố.
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ,
Phong ba na đắc tận năng bình.
Trung tín đáo đầu vô túc thị,
Bất tín “xuất môn giai uý đồ”.
Thí vọng thao thao thử giang thuỷ.

Dịch nghĩa

Trong núi miền Việt Tây có nhiều khe suối
Nghìn năm hợp lại thành một sông
Như nước rót xuống từ trời cao
Trên thác nghe thấy gì?
Rồng hiện giận dữ, sấm động ầm ầm
Dưới thác trông thấy gì?
Máy nỏ bật mạnh, tên vút khỏi dây
Một dòng vạn dặm không ngừng
Núi cao bên bờ như bức tường
Trong có đá hình thù kỳ dị chen chúc
Như rồng, rắn, hổ, báo, trâu, ngựa la liệt trước phía trước
Lớn như nhà, nhỏ bằng nắm tay
Cao như đứng, thấp như ngủ
Thẳng như chạy, cong như xoay vòng
Muôn hình vạn trạng khó nói hết
Thuồng luồng, ly long ra vào thành vực thẳm
Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ĩ
Lụt mùa hè vừa dâng nước sôi sục
Ði một mạch ba ngày, lòng chơi vơi
Lòng chơi vơi vì sợ hãi
Thiệt là nguy hiểm chìm sâu không đáy
Mọi người đều nói đường đi Trung Hoa bằng phẳng
Ðường Trung Hoa như thế này ư!
Sâu hiểm quanh co như lòng người
Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời
Tài cao thường bị văn chương ganh ghét
Thịt người là thứ ma quỷ thích nhất
Sóng gió làm sao yên cho hết
Giữ trung tín rốt cuc không đủ cậy nhờ
Ai không tin rằng “ra ngoài cửa mọi đường đều đáng sợ”
Thì hãy thử nhìn nước sông cuồn cuộn đó

Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu 題大灘馬伏波廟 

鑿通嶺道定炎墟,
蓋世功名在史書。
向老大年矜钁鑠,
除衣食外盡贏餘。
大灘風浪留前烈,
古廟松杉隔故閭。
日暮城西荊棘下,
霪潭遺悔更何如。

Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu

Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư,
Cái thế công danh tại sử thư.
Hướng lão đại niên căng quắc thước,
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư.
Ðại Than phong lãng lưu tiền liệt,
Cổ miếu tùng sam cách cố lư.
Nhật mộ thành Tây kinh cức hạ,
Dâm Ðàm di hối cánh hà như.

Dịch nghĩa

Ðục xuyên qua đường Ngũ lĩnh, bình định cõi Nam
Công danh trùm đời ghi trên sử sách
Già lớn tuổi rồi còn khoe quắc thước
Ngoài cơm áo ra, mọi thứ là thừa
Sóng gió Ðại Than còn để dấu công oanh liệt thời trước
Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà
Chiều tà dưới đám gai gọc phía tây thành
Nỗi hận ở Dâm Ðàm, sau cùng ra làm sao?

Trên đây, uct.edu.vn đã chia sẻ đến quý độc giả tập thơ Bắc Hành Tạp Lục nổi tiếng của Nguyễn Du. Ông để lại cho thế hệ sau những trang thơ đặc sắc và giàu giá trị được người đời ngợi ca là đại thi hào Nguyễn Du. Mời các bạn đón xem phần 2 cùng những thi phẩm nổi tiếng ngay bây giờ nhé!