Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc với những áng thơ bất hủ

Nguyễn Du một nhà thơ, một bậc thầy lỗi lạc với những kiệt tác văn chương đồ sộ. Là một nhà thơ nhân đạọ với tấm lòng bao dung, ông đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để phê phán, lên án hiện thực xã hội phong kiến ngày xưa. Những tập thơ của nguyễn Du được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm là tinh hoa của nền vă học Việt Nam.
Với tài năng nghệ thuật của mình, Nguyễn Du sáng tác với nhiều thẻ loại văn học khác nhau. Nguyễn Du, có công lao to lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn học Tiếng Việt phát triển lên một tầm cao mới.

I. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Du

Nguyễn Du 阮攸 (13-1-1766 – 16-9-1820), tự Tố Như 素如, hiệu Thanh Hiên 清軒, quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long.
Ông là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, nguyễn sơ.
Cha ông là Nguyễn Nghiễm đảm nhiệm chức tể tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc .
Ông mồ côi cha từ năm lên 10, năm 13 tuổi mồ côi mẹ. Vì thế nên ông có một tuổi thơ vất vả và khó khăn.
Bên cạnh đó những trang thơ chữ Hàn của Nguyễn Du phản ánh rõ nội tâm sâu kín và tâm trạng ủa nhà thơ. Đó là sự giãi bày về nỗi niềm của cuộc sống thường ngày.
Các tác phẩm thơ nổi tiếng:
Hai tác phẩm Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của ông là hai kiêt tác thơ Nôm nổi tiếng.
Các tập thơ chữ Hán nổi tiếng:

  • Thanh Hiên thi tập (1785-1802)
  • Nam trung tạp ngâm (1805-1812)
  • Bắc hành tạp lục (1813-1814,)

Các tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du như một tiếng thở dài, luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng ta hiểu cội nguồn chủ nghĩa nhân đạo của ông thể hiện trong Truyện Kiều và những ký thác đời ông vào hình tượng Kiều, nhân vật sắc tài mà bạc mệnh. Nguyễn Du là đại thi hào thơ ca, nhà danh nhân văn hóa nổi tiếng với những áng thơ văn bất hủ lưu truyền đến muôn đời.

II. Các tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Du

Thác lời trai phường nón

Tiếc thay duyên Tấn phận Tần,
Chưa quen đã lạ chưa gần đã xa.
Chưa chi đông đã rạng ra,
Đến giờ vẫn giận con gà chết toi.
Tím gan cho cái sao Mai,
Thảo nào vác búa chém trời cũng nên.
Về qua liếc mắt trông miền,
Lời oanh giọng ví chưa yên dằm ngồi.
Giữa thềm tàn đuốc còn tươi,
Bã trầu chưa quét nào người tình chung.
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng,
Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu.
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay.
Khi xa xa đến thế này,
Tiếng xa nghe hãy rù rì bên tai.
Quê nhà nắng sớm mưa mai,
Đã buồn giở đến lịp tơi càng buồn.
Thờ ơ bó vọt đống sườn,
Đã nhàm bẹ móc lại hờn nắm giang.
Trăng tà chênh chếch bóng vàng,
Dừng chân thoạt nhớ đến đàng cửa truông.
Thẩn thơ gối chiếc màn suông,
Rối lòng như sợi ai guồng cho xong.
Phiên nào chợ Vịnh ra trông,
Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba.
Càng trông càng chẳng thấy ra,
Cơi trầu quyệt đã vài và lần ôi.
Tưởng rằng nói thế mà chơi.
Song le đã động lòng người lắm thay.
Trông trời trời cách tầng mây,
Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi.
Vô tình trăng cũng như người,
Một ta ta lại ngậm cười chuyện ta.

Văn tế thập loại chúng sinh

Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
5. Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
10. Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
15. Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
35. Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
55. Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
60. Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
75. Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,
80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
95. Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
105. Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
115. Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
130. Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
135. Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
150. Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
170. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
175. Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Bài này còn gọi là Văn chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn.

Văn tế Trường Lưu nhị nữ

Than rằng:
Chùa Phổ Cứu trăng dìu gió dặt ngỡ một ngày nên nghĩa trăm năm;
Doành Đào Nguyên nước chảy hoa trôi bỗng nửa bước chia đường đôi ngả.
Chữ chung tình nghĩ lại ngậm ngùi;
Câu vĩnh quyết đọc càng buồn bã.
Nhớ hai ả xưa:
Tính khí dịu dàng;
Hình dung ẻo lả.
Rạng làu làu gương đan quế vừa tròn;
Non mơn mởn đoá hải đường chưa nở.
Sắc lông mày, săn môi sáp ai chê rằng xấu mô mồ;
Thấp mài tóc cao đường ngôi ta khên đã đẹp cha chả.
Tiếng cười tiếng nói nghe cũng hữu tình;
Nước bước nước đi thật là vô giá.
Tiết dậy mẩy trong năm mười bảy, nghề thú quê giữ mực chân xa;
Cuộc làm vui vừa cợ giêng hai, bàn cờ tướng kén vào con mã.
Khó tột vời mà rất mực hẳn hoi;
Nghề làm ăn chẳng đến điều hèn hạ.
Cuốn song gấm một thềm hoa rụng, gieo thoi vàng dệt bức hồi văn;
Buông rèm sương nửa chái trăng soi, nắn quay sắt kéo dây nhân quả.
Rủ rê năm bảy chị em;
Cưu góp ba làng bốn xã.
Con người ta được một thì con gái được thì ăn được thì chơi;
Ở đất này khá hiếm chi đàn ông chẳng hề quen chẳng hề lạ.
Đêm đêm thường ví hát xôn xao;
Ai ai cũng trầu cau đãi đoã.
Ả nọ o này đông đúc, gái một thì gặp tuổi sang xuân;
Anh kia chú nọ rình mò, trai ba phủ quyết chơi mãn hạ.
Bướm ong phấp phới, thôi quan thì dân;
Oanh yến ra vào, rộng đường quang sá.
Nhất lịch sự là quân phường ngoài Chế, những vất ra túi thuốc bông đào;
Đội thế thần thì quan họ trong làng, cũng mang tới cân ngà quả đá.
Đi về thường nhiều kẻ hẳn hoi;
Ra vào cũng lắm người chằng chạ.
Trước chái thì tàng hình thuỷ phủ đứng lăm lăm ai biết mô mồ;
Trong nhà thì thiết phục long vương nằm trập trập hình như đống mả.
Trai trong làng rình bốn mặt chan chan;
Chó hàng xóm sủa năm canh ra rả.
Biết đó những ngày trong trứng, vui chi hơn liễu cợt hoa cười;
Vẻ chi một chút ngoài da, công đâu lại then cài cửa khoá.
Ngán đâu lời nói mà lo;
Được thế hãy chơi cho thoả.
Buông bè chuối giữa dòng nước chảy, mặc dù ai chống ngược chống xuôi;
Thả lá ngô trước trận gió nồm, đã lắm kẻ bổ nghiêng bổ ngả.
Họp chợ xuân nhiều khách vãng lai;
Dạo điếm nguyệt phải khi kinh quá.
Theo chúng bạn cũng ra điều bất ý, ai dám đâu vác chuông đánh đất Đai Minh;
Gặp chị em chẳng có lẽ vô tình, ta cũng phải gánh ngói rao làng Bùi Ngoã.
Yếm nhuộm điều che trước ngực loè loè;
Câu huê tình đọc bên tai xả xả.
Quây ngoài sân thì trong làng chín mười ả, ả ví, ả hát, ả kéo sợi, ả đưa thoi, lại có ả bưng trầu tận miệng, mỹ nữ như hoa;
Léo lên giường thì quan họ năm bảy ông, ông nói, ông cười, ông ngâm thơ, ông đọc truyện, lại có ông đắp áo trùm đầu, cao bằng mãn toạ.
Thoạt đến đây buổi mới lạ lùng;
Xem chẳng khác người quen suồng sã.
Tiếp đãi mấy đêm một mực, lòng bồ đề hỉ xả từ bi;
Xôn xao một khắc ngàn vàng, dàn chẩn tế ba la bát nhã.
Ba sinh đành một kiếp hẹn hò;
Hai năm được mấy lần chung chạ.
Sừng chuốt lược cũng trong đồng đạo, trai khôn thầy dái gái khôn bà nàng;
Đá tạc bia ai ở dị tâm, đất có thổ công sông có hà bá. có thổ công, sông có hà bá.
Đến vườn mong bẻ một cành cam;
Giải lòng ước chẻ hai thanh ná.
Quả cam chén rượu đãi đằng khi chơi cửa chơi nhà;
Túi vóc khăn là, dặn dò lúc buôn mành buôn giã.
Ân cần nhiều nỗi thư từ;
Hầu hạ chẳng khuây điếu lả.
Phụt ngọn đèn trước mặt, đếch sự đời chẳng phải đứa tiểu tâm;
Đùng tiếng lói sau nhà, đéo mẹ kiếp bỗng có thằng đại phá.
Ta đã đành rụt cổ như rùa;
Ả cũng chớ vật mình như sả.
Giải kết cho ả, mới đến đây ai dám đoạt gia tài;
Hú vía cho tôi, một chút nữa sinh ra ẩu đả.sinh ra ẩu đả.
Của thập phương mặc khách thừa lưa;
Tội nhất xá xin người xuý xoá.
Như có phải quýt làm cam chịu, đã trót thì trét, sợ chi điều nói tỏi nói hành;
Song cũng là cú kêu ma ăn, đi không về không, chi đến nỗi gieo tai gieo vạ.
Ta đã đành mắc tiếng thày lay;
Ả cũng hoá ra người đĩ thoã.
Mấy kẻ biết người biết của, gấm mặc đêm nghĩ lại cũng hoài;
Một chốc ra giận ra thù, bạc gần sáng thổ nào dám gá.
Khoán ước làng cứng nhắc ngô rang;
Nhân nghĩa cũ nát tươm chó nhả.
Của là của chó treo mèo đậy, phải giữ gìn cho lắm, mắt đỏ lòm nhắm tựa mắt lươn;
Công tiếc công cốc mò cò ăn, đi chơi nhởi làm chi, mặt trắng phủi trơ như mặt nạ.
Tiếng tăm chi đó mặc ai;
Ngày tháng còn dài đó đã.
Những ngỡ trăm năm trước hẹn hò đã chắc, để phụ phàng ba chốn bốn nơi;
Nào ngờ tháng sáu này tệ bạc làm sao, bỗng tống táng một tuần hai ả.
Ờ sao mà quên ta được cho đành;
Nói thế mà lấy chồng thực ru tá.
Công lênh ấy ai còn nhớ đến, cũng cầm bằng ruổi ngựa đường dài;
Mối manh kia ta đã biết rồi, thôi cũng chớ giấu voi ruộng rạ.
Thế thời mách chúng ta vậy ru;
Thôi kính hai ả cho rồi cả.
Hãy xem những của lạ lùng;
Chẳng trách chi ai một mả.
Một chú thì dắt mũi trâu từ thuở bé, tắc tắc hò rì;
Một anh thì cắt cỏ ngựa đến tận già, tùng tùng dạ á.
Ở làm chi một năm thêm một tuổi càng cao;
Khen lắm nhỉ hai ả được hai chồng cũng khá.
Thương chắc lấy nỏ được chắc, chúng bạn ta như nghé sổ ràn;
Chê tôm lại phải ăn tôm, lời nói trước như mèo liếm mỡ.
Cha kiếp mình đã ra kiếp lăng nhăng;
Thiệt lòng ta cũng ra lòng suồng sã.
Hựu hà ngôn tại, đã sao thì vậy, lấy ai cũng đã lấy rồi;
Như tư nhi dĩ, đã thế thì thôi, nói mãi ra điều nói chạ.
Mình ở bạc đã ra Dương Tố chi gian;
Ta cũng đen chẳng biết Quan Kiệt chi trá.
Bầu bạn củ rũ đi ngoay ngoảy, chẳng nhớ câu bất diệc lạc hồ;
Nợ nần xưa vỗ sạch sành sanh, quên mất chữ vi chiếu dụng giả.
Đã biết trước yên túc quái tai;
Xem về sau như chi hà dã.
Được đó hãy hay rằng đó, mâm son bát sứ mà ăn cơm với nước cà;
Chắc đâu đã hẳn hơn đâu, chăn tằm hái dâu vẫn mặc quần nâu áo vá.
Nhất bạc tình là thói o Uy;
Chẳng nhân nghĩa ai bằng ả Sạ.
Những ngỡ đứt võng nảy xuống giường bịch cái, chẳng lấy năm thì cũng lấy ba;
Nào ngờ trèo cao sa xuống thấp ôi cha, tưởng mất một hoá ra mất cả.
Đã làm chi thế vội vàng;
Thôi chẳng lo gì thong thả.
Chi những thói cọc cằn lửa khắc, chó cậy nhà gà cậy chuồng;
Tới khi nhà hơi hởi bén mùi, trâu ăn ló bò ăn má.
Lời thề nguyền dĩ trục thuỷ lưu;
Bức thư vãn dụng bằng hoả hoá.
Người đến gốc mong bồng quả bưởi, há phải điều chúng bạn vô tình;
Con sãi chùa lại quét lá đa, thôi mặc kiếp nhà bay bất khả.
Gỗ trôi sông không trở lại Lường Dà;
Muối bỏ bể cũng thiệt công Lữ Xá.
Ả về đó bén duyên phải kiếp, chẳng quản điều mặt muội dầu gio;
Ta bây giờ quá lứa lỡ đôi, thôi chẳng khác mình trần trôn trạ.
Ôi! Nước sông Giang Đình;
Nương khoai Phan Xá.
Dải sông Cài văn vắt nước trong;
Đỉnh ngàn Hống đùn đùn mây toả.
Gương công chúa phá tan từ trước, làm chi những nỗi tá ơm;
Nhịp ngọc tiêu đành để lại sau, khôn ước những điều hú hoạ.
Nương song cúc sắp hỏi han ả Tố, vì đâu mà phận hẩm duyên ôi;
Dạo đường Hoè vừa gặp gỡ chàng Tiêu, từ đây đã người dưng nước lã.
Giận nỗi xưa mồ hôi muối đầm đìa;
Tưởng nghĩa cũ nước mắt gừng lã chã.
Thương vì nỗi mưa dầm rỉ rỉ, chận chắc với con trâu đực, ả cầm đèn, ả đi trước dẫn đường;
Đau vì khi lửa cháy phừng phừng, tím gan cho cái gà toi, ả vác búa, ả đứng ra lấp sá.
Tưởng công phu mà chưa đáng đồng tiền;
Nhớ nhân duyên muốn đi cầu ông Tá.
Nhớ những lúc tắt đèn dạy chuyện, dứt câu này nối câu khác trăng ngoài hiên khi tỏ khi mờ;
Tưởng những khi thắp đuốc chơi đêm, ở nhà ngoài vào nhà trong giọt bên chái như tầm như tã.
Rầm rì thay điếu thuốc trao tay;
Gắn bó mấy hạt cơm dính má.
Xẩy nhớ đến lời ăn tiếng nói, cám buồn mặt lợn, tóc trên đầu đếm chẳng hay cùng;
Sực tưởng khi đua sức đua tài, trơ tráo đầu trâu, gan trong bụng gãi khôn đã ngá.
Có công kể mấy nhật trình;
Lúc ấy ghép vào niên phả.
Nói sao được đường xa dặm ngái, bắt chim trời chi những sự éo le;
Cực những điều kẻ ngược người xuôi, vẻ cò đất vẫn ra điều dối trá.
Hay chi điều con gái chê chồng;
Chẳng có ai đàn ông ở goá.
Ả sang đó bồng con cho sớm, mẹ nằm võng cha nằm giường;
Ta về đây kiếm chút kẻo già, bà ăn nem ông ăn chả.
Sang chợ Vịnh rắp than cùng ả Út, đường đông ăm ắp, thấy mà kinh khăn nhiễu quần điều;
Lên chùa Hương toan tu với sư Viên, rũ sạch làu làu, mua chưa được mũ ni áo vá.
Ở nhà lâu nghĩ cũng bần thần;
Viếng cảnh cũ muốn làm khuây khoả.
Đường cửa Trẹm mỗi ngày một ngại, bóng cây tiếng suối, núi giăng giăng con mắt đã mòn;
Chòm bên làng càng tối càng buồn, ngọn khói hạt mưa, trời thâm thẩm mặt người đã nhoá.
Hắt hiu gió trúc mưa mai;
Quạnh quẽ bóng chim tăm cá.
Vì quan họ nên chúng ta mộ đức, bạn hữu quen còn được bao nhiêu;
Vào trong làng hỏi đôi ả Sạ Uy, lứa tác cũ hãy còn bao nả?
Thăm tận nhà thì chẳng thấy người quen người thuộc, chua cay thay ăn khế với gừng;
Hỏi đến tên thì đã gọi mụ nọ mụ kia, may mắn bấy trồng sung ra vả.
Cửa nhà mình đã bưng kín như buồng;
Tiếng tăm ta cũng rửa sạch như đá.
Nghĩ cũng phải ăn hơn hờn thiệt, có con có cái, ai nói chi những sự nguyệt hoa;
Toan kiếm nơi đứt nối tối nằm, lạ mặt lạ mày, ai chẳng biết lại chê cỏ dã.
Dẫu có ai trẻ mỏ mới lên;
Là những chốn xưa nay chằng bạ.
Thú ngưu mã chú xuôi anh ngược, khăn dì Sàng trầu thuốc đến đâu phần;
Vườn yến oanh cảnh đó người đâu, của ông Đấu gió trăng còn đóng khoá.
Nhân duyên xưa bẻ ngó lìa tơ;
Phong cảnh cũ vàng cây héo lá.
Tìm những chốn tre già măng mọc, hàng thịt nguýt hàng cá, dễ mấy ai cho đáng cải kim;
Dốc một bài xỉ bỏ thủ cầm, trâu cột ghét trâu ăn, sợ hàng xóm lại kêu thuỷ hoả.
Bẽ bàng mong hỏi ả Kiều;
Thương hại sẽ lừa con Sá.
Đầu sông cho đến cuối sông, ở chẳng vừa lòng roi mây đánh chết, gươm thư hùng tuy rẽ đôi nơi;
Đứt dây thì lại nối dây, thế nào tát được giếng này mới thôi, hoa tỉ muội hãy còn một đoá.
Áo đơn đà lây dấu hoa thơm;
Bình không hãy ngát mùi hương xạ.
Vào đất văn vật mang hư danh thì phải dự phòng;
Nổi phép võ biền cứ bản tộc âu là truy nã.
Tiếng tăm kia từ trước chẳng mang;
Duyên nợ ấy về sau khôn trả.
Nếu trước những trồng bông trồng đậu, hết chuyện trò chó chết thì thôi;
Từ rày đừng yêu trái yêu hoa, mất công ấy voi đâu mà tạ.
Nay:
Một nén hương thừa;
Ba tuần rượu hả.
Kể chi những đường kia nỗi nọ, đi thì đi cho thoát, kẻ đã về kiếp ấy thì thôi;
Dù chẳng nên nghĩa trước tình sau, chờ thì chờ cho xong, ai đâu có con hoài mà gả.

Những bài thơ Nôm, thơ chữ hán của Nguyễn Du mang tính nhân đạo sâu sắc, là phản ánh, lên án hiện thực xã hội phong kiến thời xưa. Nguyễn Du  – đại thi hào dân tộc với sự nghiệp thơ ca đồ sộ mang đến cho nền thơ ca nước nhà những đóng góp vô cùng lớn lao. Những tác phẩm thơ văn của ông mãi lưu truyền đến muôn đời.