Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 4

Thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến được đánh giá rất cao trong lòng bạn đọc yêu thơ. Bởi ông được nhận xét là một nhà thơ gần gũi với nhân dân và với nhiều người đánh giá, dường như Nguyễn Khuyến sinh ra để nói lên những nguyện vọng, tâm tư tình cảm của nhân dân. Và những tâm tư tình cảm đó được Nguyễn Khuyến thể hiện thông qua các sáng tác của chính mình. Hãy cùng tìm hiểu các bài thơ hay nhất bạn nhé!

Hạ nhật ngẫu hứng

夏日偶興
不堪夏日望修途,
平日凌雲志氣孤。
覆沼綠蘋跳一鯉,
當門翠竹舞雙蝴。
淵明吟興哆歸酒,
子厚環溪儘為愚。
閒坐方將取杯酌,
雨從東至好風俱。
Hạ nhật ngẫu hứng
Bất kham hạ nhật vọng tu đồ,
Bình nhật lăng vân chí khí cô.
Phúc chiểu lục tần khiêu nhất lý,
Đương môn thuý trúc vũ song hồ.
Uyên Minh ngâm hứng sỉ quy tửu,
Tử Hậu hoàn khê tẫn vị ngu.
Nhàn toạ phương tương thủ bôi chước,
Vũ tòng đông chí hảo phong câu.
Dịch nghĩa
Ngày hè nhìn đường dài lấy làm khó chịu
Chí khí ngang tàng vốn có đã thành cô quạnh
Trên đám rau tần biếc phủ mặt ao thấy một con cá chép nhẩy lên
Trong bụi tre xanh trước cửa có đôi bươm bướm bay liệng
Hứng thơ của Uyên Minh phần nhiều vì rượu
Khe quanh nhà Tử Hậu cũng mang tiếng ngu
Ngồi rỗi đương toan mang rượu ra uống
Mưa từ phương đồng với làn gió mát cùng đến

Hạ nhật ngẫu thành

夏日偶成
余歸五六載,
所居七間堂。
西南池水清,
俯見魚洋洋。
東北籬竹多,
窗開晨氣涼。
扶筇恣出入,
憑几隨低昂。
乘興輒縱飲,
一飲累十觴。
矧此新穀甘,
兼之園菜香。
命兒取書讀,
悠悠思燧黃。
Hạ nhật ngẫu thành
Dư quy ngũ lục tải,
Sở cư thất gian đường.
Tây nam trì thuỷ thanh,
Phủ kiến ngư dương dương.
Đông bắc ly trúc đa,
Song khai thần khí lương.
Phù cùng tứ xuất nhập,
Bằng kỷ tuỳ đê ngang.
Thừa hứng triếp túng ẩm,
Nhất ẩm luỹ thập trường.
Thẩn thử tân cốc cam,
Kiêm chi viên thái hương.
Mệnh nhi thủ thư độc,
Du du tư Toại, Hoàng.
Dịch nghĩa
Ta về nghỉ đã năm sáu năm,
Nơi ở có ngôi nhà bảy gian.
Phía Tây nam có ao nước trong,
Cúi nhìn cá bơi lội tung tăng.
Phía Đông bắc có bờ tre rậm,
Mở cửa sổ ra, khí trời buổi sáng mát mẻ.
Chống gậy tha hồ đi ra đi vào.
Tựa ghế ngồi, muốn thấp muốn cao tuỳ ý.
Cao hứng lên rót rượu uống tràn,
Mỗi lần uống hàng mấy chục chén.
Phương chi gạo mới ngon cơm,
Lại thêm rau vườn thơm tho.
Sai con lấy sách ra đọc,
Xa xôi lại nghĩ đến đời Toại Nhân, Hoàng Đế.

Hạ nhật phỏng biểu huynh Đặng thai quy tác

夏日訪表兄鄧台歸作
攜杖捫蘿遶徑行,
偶然來訪鄧家兄。
相看鬚髮誰為老,
曾見閭閻半未更。
臥樹疲牛噓暑氣,
隔池小犬吠人聲。
逍遙笑指天公健,
盡日當空一笛橫。
Hạ nhật phỏng biểu huynh Đặng thai quy tác
Huề trượng môn la nhiễu kính hành,
Ngẫu nhiên lai phỏng Đặng gia huynh.
Tương khan tu phát thuỳ vi lão,
Tằng kiến lư diêm bán vị canh.
Ngoạ thụ bì ngưu hư thử khí,
Cách trì tiểu khuyển phệ nhân thanh.
Tiêu dao tiếu chỉ thiên công kiện,
Tận nhật đương không nhất địch hoành
Dịch nghĩa
Chống gậy theo lùm dây leo trước cổng dạo quanh đường hẹp,
Ngẫu nhiên đến thăm nhà bác Đặng.
Nhìn nhau râu tóc, ai là người già hơn?
Từng thấy xóm làng một nửa chưa thay đổi.
Trâu mệt, nằm dưới gốc cây phì hơi nắng,
Con chó nhỏ bên kia ao sủa tiếng người.
Thủng thỉnh cười chỉ ông trời khoẻ:
Suốt ngày một cây sáo lơ lửng giữa tầng không.

Hạ nhật tân tình

夏日新晴
喜得新晴一啓扉,
雲間容與出黃衣。
老蠶愛燥眠將起,
新穀含喧腹漸肥。
牧豎橫鞭驅犢過,
鄰翁扶杖看田歸。
北窗獨坐添杯酒,
何處寒鴉徹杜飛。
Hạ nhật tân tình
Hỷ đắc tân tình nhất khải phi,
Vân gian dung dữ xuất hoàng y.
Lão tàm ái táo, miên tương khởi,
Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì.
Mục thụ hoành tiên khu độc quá,
Lân ông phù trượng khán điền quy.
Bắc song độc toạ thiêm bôi tửu,
Hà xứ hàn nha triệt đỗ phi.
Dịch nghĩa
Mừng được trời mới hửng nắng, vội mở cửa ra xem.
Thấy trên mây lững thững hiện ra bóng áo vàng.
Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy,
Lúa mới ngậm hơi ấm, đòng đòng dần dần mẫm ra.
Chú bé chăn trâu cầm ngang chiếc roi xua nghé đi qua,
Ông già bên xóm chống gậy đi thăm ruộng trở về.
Một mình ngồi bên cửa sổ hướng Bắc, lại thêm chén rượu,
Chỉ thấy chiếc quạ từ nơi nào, tha rễ cây bay qua.

Hạ nhật vãn diểu

夏日晚眺
四月初回暑氣濃,
一清啼鳥綠陰中。
家人晒穀爭逃雨,
婦女登蠶擬護風。
原濕貪天歸亦晚,
雲陰覆日影猶紅。
百年奕奕誰無事,
散髮承涼獨乃翁。
Hạ nhật vãn diểu
Tứ nguyệt sơ hồi thử khí nùng,
Nhất thanh đề điểu lục âm trung.
Gia nhân sái cốc tranh đào vũ,
Phụ nữ đăng tàm nghĩ hộ phong.
Nguyên thấp tham thiên quy diệc vãn,
Vân âm phúc nhật ảnh do hồng.
Bách niên dịch dịch thuỳ vô sự,
Tán phát thừa lương độc nãi ông.
Dịch nghĩa
Mới đầu tháng tư khí trời đã nóng nực,
Một tiếng chim hót trong lùm cây xanh.
Người nhà phơi lúa tranh nhau chạy mưa,
Đàn bà nuôi tằm tìm cách chắn gió.
Ruộng lầy, người đi làm tham buổi về muộn,
Bóng mây che mặt trời vẫn còn rạng ánh hồng.
Cuộc đời tất cả đều túi bụi, có ai là người rỗi việc?
Xoã tóc hóng mát, chỉ có độc ông lão này.

Hạ nhật văn cô ác thanh

夏日聞鴣惡聲
鴣惡一聲愁殺人,
鴣來春去不知春。
撤他桑杜為門戶,
只有婦夫無君臣。
處處白衣憍白日,
村村紅栵擻紅塵。
鴣來鴣不苦煩熱,
回首東風暗濺巾。
Hạ nhật văn cô ác thanh
Cô ác nhất thanh sầu nhất nhân,
Cô lai xuân khứ bất tri xuân.
Triệt tha tang đỗ vi môn hộ,
Chỉ hữu phụ phu vô quân thần.
Xứ xứ bạch y kiêu bạch nhật,
Thôn thôn hồng lệ tẩu hồng trần.
Cô lai cô bất khổ phiền nhiệt,
Hồi thủ đông phong ám tiễn cân.
Dịch nghĩa
Một tiếng kêu cô ác buồn chết chết người ta
Cô về thì xuân đi cô không biết xuân
Lấy tổ rễ dâu của chi khác làm tổ của mình
Chỉ có vợ chồng mà không có vua tôi
Đến đâu đều áo trắng khoe khoang giữa ban ngày
Nơi nào quả vải đỏ cùng tới tấp trong bụi hồng
Cô đến cô không thấy khổ vì nóng nực
Ngoảnh đầu nhớ đến gió xuân giọt lệ thấm khăn

Hà Nội Văn Miếu hữu cảm

河內文廟有感
十載空躋舊監門,
悠悠心事向誰論。
奎樓未斷宵鐘響,
碧水猶招月夜魂。
拭目沾巾吾道厄,
拂碑看字古人存。
往來時有村墟叟,
巷外扶筇默不言。
Hà Nội Văn Miếu hữu cảm
Thập tải không tê cựu Giám môn,
Du du tâm sự hướng thuỳ luân.
Khuê lâu vị đoạn tiêu chung hưởng,
Bích Thuỷ do chiêu nguyệt dạ hồn.
Thức mục triêm cân ngô đạo ách,
Phất bi khán tự cổ nhân tồn.
Vãng lai thời hữu thôn khư tẩu,
Hạng ngoại phú cùng mặc bất ngôn.
Dịch nghĩa
Đã mươi năm, nay lại bước tới cửa Giám cũ,
Nỗi lòng dằng dặc biết nói cùng ai.
Lầu Khuê Văn chưa dứt tiếng chuông đêm,
Dòng Bích Thuỷ còn gọi hồn trăng khuya.
Lau nước mắt ướt khăn vì nỗi đạo ta khốn ách,
Phủi bia cũ xem chữ, cảm thấy người xưa vẫn còn.
Thỉnh thoảng có ông lão trong xóm qua lại,
Cứ chống gậy đi trên đường ngõ chẳng nói năng gì.

Hạ Thượng thôn biểu thất thập thọ

Ông bà tóc bạc nhà cao
Trời cho tuổi tác thế nào là vui
Ông sinh được năm trai ba gái
Đều lớn khôn êm ái thất gia
Ngâm câu giai lão trên nhà
Dưới nhà lại có bạch hoa sinh bồn
Khi ông vui bảo ban lũ cháu
Khi uốn cây cảnh chậu ngâm nga
Bảy mươi lên lão làng ta
Làng ta lại sẵn rượu hoa đầy bình
Vừa gặp buổi trời xanh gió mát
Đường cỏ non hoa ngát chim gù
Non xanh xa ngắt tuyệt mù
Sông gần làn sóng nhấp nhô lưng dòng
Lễ xưa vẫn nghe ông gìn giữ
Giọng khất ngôn, hợp ngữ đều hay
Năm mươi mốt tuổi tôi hay
Xem chừng tóc bạc, răng lay, mắt loà
Khôn tới ngựa ruổi ra hoàng lộ
Vậy treo xe làng cũ nghỉ ngơi
Có khi đình đám vui cười
Có khi vườn ruộng dâu gai nói bàn
Mừng ông dâng rượu ngon một bát
Thế cũng là đàn hát lọ chi!

Hàm giang xuân thuỷ

涵江春水
一派汪洋到海濱,
涵江江水不勝春。
梧桐月印波心玉,
楊柳風飄水面銀。
兩岸分開南北路,
一帆送盡往來人。
丁家戰將餘豪氣,
洲渚依依長綠蘋。
Hàm giang xuân thuỷ
Nhất phái uông dương đáo hải tân,
Hàm giang giang thuỷ bất thắng xuân.
Ngô đồng nguyệt ấn ba tâm ngọc,
Dương liễu phong phiêu thuỷ diện ngân.
Lưỡng ngạn phân khai nam bắc lộ,
Nhất phàm tống tận vãng lai nhân.
Đinh gia chiến tướng dư hào khí,
Châu chử y y trưởng lục tần.
Dịch nghĩa
Một dải mênh mông chảy xuôi ra bể
Cảnh xuân trên sông Hàm đẹp biết chừng nào
Trăng từ ngọn ngô đồng in xuống lòng sông như những hạt ngọc
Gió qua ngàn dương liễu thổi gợn mặt nước trắng xoá như bạc
Hai bên bờ chia thành hai ngả bắc nam
Một cánh buồm tiễn đưa tất cả khách xuôi ngược
Khí hào hùng của những chiến tướng họ Đinh còn sót lại những gì
Kìa đám rau tần bên bến nước vẫn xanh tốt như xưa

Hí tặng song hữu Lê Xá tú tài

戱贈窗友黎舍秀才
同病由來病不同,
君偏明目我偏聰。
談依手畫閒君耳,
酒有人斟佐我瞳。
天性衹應靈不昧,
世情莫厭柚如充。
二人解使合為一,
賦予為公却未公。
Hí tặng song hữu Lê Xá tú tài
Đồng bệnh do lai bệnh bất đồng,
Quân thiên minh mục ngã thiên thông.
Đàm y thủ hoạ nhàn quân nhĩ,
Tửu hữu nhân châm tá ngã đồng.
Thiên tính chỉ ưng linh bất muội,
Thế tình mạc yếm dữu như sung.
Nhị nhân giải sử hợp vi nhất,
Phú dữ vi công khước vị công.
Dịch nghĩa
Cùng là bệnh nhưng bệnh không giống nhau
Bác thì chỉ còn mắt sáng, tôi thì còn tai sáng
Nói chuyện bằng tay vẽ làm cho tai bác rảnh
Rượu có người rót hộ đỡ cho con mắt của tôi
Sẵn có tính trời chỉ cần giữ cho tâm linh khỏi mờ đi là đủ
Đối với thói đời hãy cứ điếc mà cười xoà càng hay
Hai người nếu hợp lại chỉ bằng một người
Tạo vật phú dữ cho người, cứ bảo là công những cũng chưa công

Hoạ đáp Hoàng tham tri tặng hồi nguyên vận

Tái xuất hà tâm bác nhất quan
Thẩn lao nhị thụ thập niên gian
Thiếu Lăng ly loạn tần ngâm khổ
Bành Trạch quy lai cửu ái nhàn
Lão nhãn kỷ hồi kinh kiến hải
Dư sinh thử nhật hảo hoàn san
Tế thời bằng quận quần công lực
Vô sự sài môn vĩnh tự quan
Hoàn gia tác
Phong trần thập tải nhất hoàn gia
Mấn dĩ thành sương nhãn hựu hoa
Cựu kính tùng trung đa thác ngạn
Phi hồng vân ngoại độc tư ta
Hậu môn đồng hỉ ông quy hỹ
Trương tiết nhân truyền tử thị da
Tỉ ỷ hàn song vô nhất thoại
Canh thâm lộ trọng nguyệt sơ tà

Hoàn Kiếm hồ

還劍湖
不到劍湖三十年,
當時景色已茫然。
衡茅何處起樓閣,
笳礮但聲無管絃。
玄鳥歸來迷舊徑,
白鷗暮下宿寒煙。
可憐五百文章地,
尚有孤山石一拳。
Hoàn Kiếm hồ
Bất đáo Kiếm hồ tam thập niên,
Đương thì cảnh sắc dĩ mang nhiên.
Hành mao hà xứ khởi lâu các,
Già pháo đãn thanh vô quản huyền.
Huyền điểu quy lai mê cựu kính,
Bạch âu mộ hạ túc hàn yên.
Khả liên ngũ bách văn chương địa,
Thượng hữu cô sơn thạch nhất quyền.
Dịch nghĩa
Đã ba mươi năm không đến hồ Hoàn Kiếm,
Cảnh sắc thời ấy nay đã mờ mịt.
Những nơi nhà tranh cổng trống đều thành lâu đài,
Ban đêm chỉ nghe tiếng súng, tiếng kèn, không thấy đàn sáo.
Chim én tìm về quên cả lối cũ,
Âu trắng tối đến ngủ trong khói sương.
Đáng thương mảnh đất văn vật năm trăm năm trước.
Chỉ còn một hòn núi đá nhỏ như nắm tay trơ trọi.

Hung niên kỳ 1

凶年其一
我生之後嘆逢罹,
世亂人窮歲又饑。
息息夜蟲如自訴,
嗷嗷霜雁欲何之。
幸因儒等為先丐,
久慣蔾根未皺皮。
憂悶愴然將著筆,
古人乞食已成詩。
Hung niên kỳ 1
Ngã sinh chi hậu thán phùng ly,
Thế loạn nhân cùng tuế hựu ky.
Tức tức dạ trùng như tự tố,
Ngao ngao sương nhạn dục hà chi.
Hạnh nhân nho đẳng vi tiên cái,
Cửu quán lê căn vị trứu bì.
Ưu muộn sảng nhiên tương trước bút,
Cổ nhân khất thực dĩ thành thi.
Dịch nghĩa
Than ôi, ta sinh ra gặp buổi nhiều điều lo lắng
Đời loạn người cùng lại gặp năm mất mùa
Ban đêm dế kêu rền rĩ như nói lên những sự ấm ức
Tiếng nhạn kêu sương nhác muốn bay đi ngả nào
Cũng may nhà nho còn được xếp trên hạng ăn mày
Đã quen ăn rễ rau lê nên da chưa đến nỗi nhăn lại
Trong lúc lo buồn sắp cầm bút viết
Sực nhớ đến đời xưa đã từng có “thơ xin ăn”

Hung niên kỳ 2

凶年其二
凶年安得我田臧,
索食啼饑處處忙。
農帝若知千載後,
應教咀搏似鴻荒。
Hung niên kỳ 2
Hung niên an đắc ngã điền tang,
Sách thực đề cơ xứ xứ mang.
Nông đế nhược tri thiên tải hậu,
ứng giao thư bác tự hồng hoang.
Dịch nghĩa
Năm mất mùa ruộng ta tốt sao được
Kẻ xin ăn người khóc đói nơi nơi nháo nhác
Nếu vua thần nông mà biết được việc sau nghìn năm
Thì có lẽ cứ để cho người ta ăn sống bắt tươi như thời hồng hoang

Hung niên kỳ 3

凶年其三
雨打寒窗一半開,
推衾起坐悵然懷。
但聞鄰婦祈新麥,
不見村翁送舊醅。
故國山何真慘黮,
他鄉鴻雁最悲哀。
年饑卻怪施施者,
何處墦間饜足來。
Hung niên kỳ 3
Vũ đả hàn song nhất bán khai,
Thôi khâm khởi toạ trướng nhiên hoài.
Đãn văn lân phụ kỳ tân mạch,
Bất kiến thôn ông tống cựu bồi.
Cố quốc sơn hà chân thảm đạm,
Tha hương hồng nhạn tối bi ai.
Niên cơ khước quái thi thi giả,
Hà xứ phần gian yếm túc lai.
Dịch nghĩa
Mưa tạt vào cửa sổ lạnh lẽo mở hé nửa chừng
Tung chăn ngồi dậy dạ những bồi hồi
Chỉ nghe thấy mụ hàng xóm cầu đảo lúa mới
Không thấy ông lão trong làng đưa thứ rượu cũ đến
Trông vời non sông nước cũ thật là thảm đạm
Lũ chim hồng nhạn lạc loài tha hương rất là đau thương
Năm đói nhưng lạ thay có kẻ nét mặt vẫn hớn hở
Chẳng biết no nê từ nơi cồn mả nào mà đến

Hung niên kỳ 4

凶年其四
旱甚冬前榖不收,
凄風今夏冷如秋。
墦間剩粥曾餐未,
甕底留醅肯醉無。
國運若為家運厄,
大人應作豕人呼。
莫嘆尋常饑餓甚,
時窮力是見真吾。
Hung niên kỳ 4
Hạn thậm đông tiền cốc bất thu,
Thê phong kim hạ lãnh như thu.
Phần gian thặng chúc tằng xan vị,
Úng để lưu bồi khẳng tuý vô.
Quốc vận nhược vi gia vận ách,
Đại nhân ứng tác thỉ nhân hô.
Mạc thán tầm thường cơ ngạ thậm,
Thời cùng lực thị kiến chân ngô.
Dịch nghĩa
Mùa đông trước vì đại hạn lúa không thu được
Gió rét mùa hè này lại lạnh như mùa thu
Cháo thừa ở bãi tha ma đã từng ăn chưa?
Rượu còn lại ở đáy hũ có thèm uống không?
Ví phỏng vận nước cũng bị tai ách như vận nhà
Thì những hạng “ông lớn” đều đáng gọi là “ông lợn” cả
Đói kém chỉ là việc tầm thường đừng than vãn lắm
Chỉ đến lúc cùng mới thấy được cái bản chất của ta

Hung niên kỳ 5

凶年其五
旱甚冬前穀不收,
凄風今夏冷如秋。
墦間剩粥曾餐未,
甕底留醅肯醉無。
國運若為家運厄,
大人應作豕人呼。
莫嘆尋常饑餓甚,
時窮方是見真吾。
Hung niên kỳ 5
Hạn thậm đông tiền cốc bất thu,
Thê phong kim hạ lãnh như thu.
Phiền gian thặng chúc tằng xan vị,
Úng để lưu phôi khẳng tuý vô.
Quốc vận nhược vi gia vận ách,
Đại nhân ưng tác thỉ nhân hô.
Mạc thán tầm thường cơ ngã thậm,
Thì cùng phương thị kiến chân ngô.

Trên đây là các bài thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay nhất mà chúng tôi muốn chia sẻ và giới thiệu với bạn. Thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu được tài năng và khả năng dùng từ và vận dụng ngôn ngữ trong các sáng tác của mình vô cùng linh hoạt. Cũng như ông đã mang cái thanh tao của chính nhân cách của mình vào trong thơ ca. Đó cũng chính là điểm hấp dẫn trong thơ ông và cũng chính là cách ông chinh phục bạn đọc. Đừng quên đón đọc các bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật các bài thơ hay nhất bạn nhé!
Xem thêm: Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 5