Chọn lọc những bài thơ Trung Quốc hay và ý nghĩa nhất

Chọn lọc những bài thơ Trung Quốc hay và ý nghĩa với nhiều chủ đề khác nhau như thơ Trung Quốc về tình bạn, thơ Trung Quốc về cuộc sống… mang đến cho độc giả yêu thơ có thêm những hiểu biết về thơ Đường. Với lịch sử lâu đời, thơ Trung Quốc là một kho tàng thơ ca vô cùng phong phú và độ sộ. Với nhiều bài thơ Trung Quốc hay, nổi tiếng mời quý độc giả cùng đón đọc.

A nương bi khấp kỳ 1

阿娘悲泣其一
或仕宦,
或職務,
離別耶娘經歲數,
四時八節未歸來。
阿娘悲泣。
A nương bi khấp kỳ 1
Hoặc sĩ hoạn,
Hoặc chức vụ,
Ly biệt da nương kinh tuế sổ,
Tứ thì bát tiết vị quy lai.
A nương bi khấp.

A nương bi khấp kỳ 2

阿娘悲泣其二
或經營,
逐利去,
或住他鄉或道路,
兒子雖然向外安。
阿娘悲泣。
A nương bi khấp kỳ 2
Hoặc kinh doanh,
Trục lợi khứ,
Hoặc trú tha hương hoặc đạo lộ,
Nhi tử tuy nhiên hướng ngoại an.
A nương bi khấp.

A nương bi khấp kỳ 3

阿娘悲泣其三
或在都,
或鎮戍,
三載防邊受辛苦,
信息希疏道路遙。
阿娘悲泣。
A nương bi khấp kỳ 3
Hoặc tại đô,
Hoặc trấn thú,
Tam tải phòng biên thụ tân khổ,
Tín tức hy sơ đạo lộ dao.
A nương bi khấp.

Cửu trương cơ kỳ 1

九張機其一
一張機,
采桑陌上試春衣。
風晴日暖慵無力。
桃花枝上,
啼鶯言語,
不肯放人歸。
Cửu trương cơ kỳ 1
Nhất trương cơ,
Thái tang mạch thượng thí xuân y.
Phong tình nhật noãn dung vô lực.
Đào hoa chi thượng,
Đề oanh ngôn ngữ,
Bất khẳng phóng nhân quy.

Cửu trương cơ kỳ 2

九張機其二
兩張機,
行人立馬意遲遲。
深心未忍輕分付,
回頭一笑,
花間歸去,
只恐被花知。
Cửu trương cơ kỳ 2
Lưỡng trương cơ,
Hành nhân lập mã ý trì trì.
Thâm tâm vị nhẫn khinh phân phó,
Hồi đầu nhất tiếu,
Hoa gian quy khứ,
Chỉ khủng bị hoa tri.

Cửu trương cơ kỳ 3 九張機其

九張機其三
三張機,
吳蠶已老燕雛飛。
東風宴罷長洲苑,
輕綃催趁,
館娃宮女,
要換舞時衣。

Cửu trương cơ kỳ 3
Tam trương cơ,
Ngô tàm dĩ lão yến sồ phi.
Đông phong yến bãi trường châu uyển,
Khinh tiêu thôi sấn,
Quán oa cung nữ,
Yêu hoán vũ thì y.
Cửu trương cơ kỳ 4
九張機其四
四張機,
咿啞聲裏暗顰眉。
回梭織朵垂蓮子。
盤花易綰,
愁心難整,
脈脈亂如絲。
Cửu trương cơ kỳ 4
Tứ trương cơ,
Y á thanh lý ám tần my.
Hồi thoa chức đoá thuỳ liên tử.
Bàn hoa dị oản,
Sầu tâm nan chỉnh,
Mạch mạch loạn như ty.

Cửu trương cơ kỳ 5

九張機其五
五張機,
橫紋織就沈郎詩。
中心一句無人會。
不言愁恨,
不言憔悴。
只恁寄相思。
Cửu trương cơ kỳ 5
Ngũ trương cơ,
Hoành văn chức tựu trầm lang thi.
Trung tâm nhất cú vô nhân hội.
Bất ngôn sầu hận,
Bất ngôn tiều tuỵ.
Chỉ nhẫm ký tương tư.

Cửu trương cơ kỳ 6

九張機其六
六張機,
行行都是耍花兒。
花間更有雙蝴蝶。
停梭一晌,
閉窗影裏,
獨自看多時。
Cửu trương cơ kỳ 6
Lục trương cơ,
Hàng hàng đô thị sái hoa nhi.
Hoa gian cánh hữu song hồ điệp.
Đình thoa nhất hướng,
Bế song ảnh lý,
Độc tự khán đa thì.

Cửu trương cơ kỳ 7

九張機其七
七張機,
鴛鴦織就又遲疑。
只恐被人輕裁剪。
分飛兩處,
一場離恨,
何計再相隨。
Cửu trương cơ kỳ 7
Thất trương cơ,
Uyên ương chức tựu hựu trì nghi.
Chỉ khủng bị nhân khinh tài tiễn.
Phân phi lưỡng xứ,
Nhất trường ly hận,
Hà kế tái tương tuỳ.

Cửu trương cơ kỳ 8

九張機其八
八張機,
回紋織就阿誰詩。
織成一片淒涼意。
行行讀遍,
厭厭無語,
不忍更尋思。
Cửu trương cơ kỳ 8
Bát trương cơ,
Hồi văn chức tựu a thuỳ thi.
Chức thành nhất phiến thê lương ý.
Hàng hàng độc biến,
Yếm yếm vô ngữ,
Bất nhẫn cánh tầm tư.

Cửu trương cơ kỳ 9

九張機其九
九張機,
雙花雙葉又雙枝。
薄情自古多離別。
從頭到底,
將心縈繫,
穿過一條絲。
Cửu trương cơ kỳ 9
Cửu trương cơ,
Song hoa song diệp hựu song chi.
Bạc tình tự cổ đa ly biệt.
Tòng đầu đáo để,
Tương tâm oanh hệ,
Xuyên quá nhất điều ty.

Đạn ca

彈歌
斷竹,
續竹。
飛土,
逐宍。
Đạn ca
Đoạn trúc,
Tục trúc.
Phi thổ,
Trục nhục.
Dịch nghĩa
Chặt tre,
Nối tre thành cung.
Bắn đạn đất,
Đuổi cầm thú.

Đề bích

題壁
一團茅草亂蓬蓬,
驀地燒天驀地空。
爭似滿爐煨榾柮,
漫騰騰地暖烘烘。
Đề bích
Nhất đoàn mao thảo loạn bồng bồng,
Mạch địa thiêu thiên mạch địa không.
Tranh tự mãn lô uy cốt quật,
Mạn đằng đằng địa noãn hồng hồng.
Dịch nghĩa
Một đám cỏ khô như rơm rác rối mắt,
Bỗng cháy bừng khắp đất trời, lúc lại tắt.
Sao bằng được lò lửa đầy củi gốc lỏi,
Cháy chầm chậm toả hơi nóng ấm.

Hỉ thu thiên – Đảo luyện thiên thanh

喜秋天-搗練千聲
芳林玉露催,
花蕊金風觸。
永夜嚴霜萬草衰,
搗練千聲促。
Hỉ thu thiên – Đảo luyện thiên thanh
Phương lâm ngọc lộ thôi,
Hoa nhị kim phong xúc.
Vĩnh dạ nghiêm sương vạn thảo suy,
Đảo luyện thiên thanh xúc.

Kích nhưỡng ca

擊壤歌
日出而作,
日入而息;
鑿井而飲,
耕田而食。
帝力於我何有哉!
Kích nhưỡng ca
Nhật xuất nhi tác,
Nhật nhập nhi tức.
Tạc tỉnh nhi ẩm,
Canh điền nhi thực.
Đế lực ư ngã hà hữu tai!
Dịch nghĩa
Mặt trời mọc thì làm việc,
Mặt trời lặn thì nghỉ ngơi.
Đào giếng mà uống,
Cày ruộng mà ăn.
Vua giúp sức cho ta, nào có chuyện đó.

Ký nội thi

寄內詩
握筆題詩易,
荷戈征戍難。
慣從鴛被緩,
怯向雁門寒。
瘦盡寬衣帶,
啼多漬枕簟。
試留青黛著,
回日畫盾看。
Ký nội thi
Ác bút đề thi dị,
Hạ qua chinh thú nan.
Quán tòng Uyên bị hoãn,
Khiếp hướng Nhạn môn hàn.
Sấu tận khoan y đới,
Đề đa tý chẩm đan (điệm).
Thí lưu thanh đại trước,
Hồi nhật hoạ my khan.
Dịch nghĩa
Cầm bút đề thơ là chuyện dễ
Ôm cái mác đi chinh chiến xa mới là khó
Đã từng quen với tấm chăn Uyên êm ấm
Nay ngại phải vượt qua ải Nhạn môn lạnh lẽo
Gầy quá nên đai và áo thấy rộng thùng thình
Khóc nhiều nên chiếu gối đẫm lệ
Hãy giữ lấy thuốc đen
Ngày về ta sẽ kẻ mày (cho nàng)

Ký phu thi

寄夫詩
垂楊傳語山丹,
爾到江南艱難。
爾那里討個南婆,
我這里嫁個契丹。
Ký phu thi
Thuỳ dương truyền ngữ Sơn Đan,
Nhĩ đáo Giang Nam gian nan.
Nghĩ ná lý thảo cá nam bà,
Ngã giá lý giá cá Khiết Đan.
Dịch nghĩa
Cây thuỳ dương nói lại với Sơn Đan
Chàng đến Giang Nam rất khó khăn
Ở đó chàng hãy lấy một bà người nam
Còn thiếp ở đây sẽ lấy một người Khiết Đan

Lục lộ thi

陸路詩
弧矢蓬門肇四方,
人生難脫利名韁。
英雄炙手棋贏著,
富貴回頭戲散場。
宿水餐風疲歲月,
爭長競短苦心腸。
郵亭野店君知道,
慢慢行來不用忙。
Lục lộ thi
Hồ thỉ bồng môn triệu tứ phương,
Nhân sinh nan thoát lợi danh cương.
Anh hùng cứu thủ kỳ doanh trước,
Phú quý hồi đầu hý tản trường.
Túc thuỷ xan phong bì tuế nguyệt,
Tranh trường cạnh đoản khổ tâm trường.
Bưu đình dã điếm quân tri đạo,
Mạn mạn hành lai bất dụng mang.

Lý Ba tiểu muội ca

李波小妹歌
李波小妹字雍容,
褰裳逐馬如卷蓬。
左射右射必疊雙。
婦女尚如此,
男子安可逢!
Lý Ba tiểu muội ca
Lý Ba tiểu muội tự Ung Dung,
Kiển thường trục mã như quyển bồng.
Tả xạ hữu xạ tất điệp song.
Phụ nữ thượng như thử,
Nam tử an khả phùng!
Dịch nghĩa
Tiểu muội Lý Ba tự là Ung Dung,
Vén áo phi ngựa nhanh như gió cuốn cỏ bồng.
Bắn cung bên trái, bắn cung bên phải, tất sẽ trúng cả hai.
Phụ nữ mà như vậy,
Nam tử làm sao có thể bằng được.

Mai hoa dữ đạo tình

梅花與道情
火虐風嚎水漬根,
霜皴雪皺古苔痕。
東風未肯隨寒暑,
又蘗清香與返魂。
Mai hoa dữ đạo tình
Hoả ngược phong hào thuỷ tý căn,
Sương thuân tuyết trứu cổ đài ngân.
Đông phong vị khẳng tuỳ hàn thử,
Hựu bách thanh hương dữ phản hồn.

Nam phương ca khúc

南方歌曲
丈夫生不能披肝折檻,為世扶綱常。
逍遙四海,胡為乎此鄉。
回頭南望邈無極兮,天雲一色徒蒼蒼。
立功不成,學不就,少壯有幾辰兮,坐視百年身世驅陰陽。
撫掌狂歌問斯世,茫茫天地,安得知一知己兮,試來對酌佑予觴。
予觴擲向東溟水,東溟之水萬隊起狂瀾。
予觴擲向西山雨,西山之雨一陣何汪洋。
予觴擲向北風去,北風揚沙走石飛殊方。
予觴擲向南天霧,霧中有人開口一飲蘧然醉。
天地宇宙渾相忘,予不醉矣,予行予志。
男兒自古事桑蓬,何必窮愁泣枌梓。
Nam phương ca khúc
Trượng phu sinh bất năng phi can chiết hạm, vị thế phù cương thường.
Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương.
Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương.
Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thần hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương.
Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế, mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ hề, thí lai đối chước hữu dư trường.
Dư trường trịch hướng đông minh thủy, đông minh chi thủy vạn đội khởi cuồng lan.
Dư trường trịch hướng tây sơn vũ, tây sơn chi vũ nhất trận hà uông dương.
Dư trường trịch hướng bắc phong khứ, bắc phong dương sa tẩu thạch phi thù phương.
Dư trường trịch hướng nam thiên vụ, vụ trung hữu nhân khai khẩu nhất ẩm cừ nhiên tuý.
Thiên địa vũ trụ hỗn tương vong, dư bất tuý hĩ, dư hành dư chí.
Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử.
Dịch nghĩa
Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời
Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, miệt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.
Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này
Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng
Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng
Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.

Ngộ đạo thi

悟道詩
盡日尋春不見春,
芒鞋踏遍隴頭雲。
歸來笑拈梅花嗅,
春在枝頭已十分。
Ngộ đạo thi
Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân,
Mang hài đạp biến lũng đầu vân.
Quy lai tiếu niễm mai hoa khứu,
Xuân tại chi đầu dĩ thập phân.
Dịch nghĩa
Suốt ngày tìm xuân chẳng thấy xuân,
Mang đôi giày rách đạp khắp mây đầu lũng.
Trở về khẽ với một bông hoa mai ngửi,
Xuân đã về trên đầu cành đến mười phần.

Ngũ canh chuyển – Duyên danh lợi kỳ 1

五更轉-緣名利其一
一更初夜坐調琴,
欲奏相思傷妾心。
每恨狂夫薄行跡,
一過拋人年月深。
Ngũ canh chuyển – Duyên danh lợi kỳ 1
Nhất canh sơ dạ toạ điều cầm,
Dục tấu tương tư thương thiếp tâm.
Mỗi hận cuồng phu bạc hạnh tích,
Nhất quá phao nhân niên nguyệt thâm.

Ngũ canh chuyển – Duyên danh lợi kỳ 2

五更轉-緣名利其二
君自去來經幾春,
不傳書信絕知聞。
願妾變為天邊雁,
萬里悲鳴尋訪君。
Ngũ canh chuyển – Duyên danh lợi kỳ 2
Quân tự khứ lai kinh kỷ xuân,
Bất truyền thư tín tuyệt tri văn.
Nguyện thiếp biến vi thiên biên nhạn,
Vạn lý bi minh tầm phóng quân.

Những bài thơ Trung Quốc hay và nổi tiếng có dịch nghĩa hi vọng sẽ mang đến cho độc giả yêu thơ những vần thơ, bài thơ ý nghĩa nhất. Thơ Trung Quốc với nhiều chủ đề khác nhau về tình yêu và cuộc sống là những bài thơ hay mang đến những chân lý, tính giáo dục cao.