Người làm vườn – Nhóm thơ nổi bật của Tagore Rabindranath phần 5

Người Làm Vườn phần 5 sẽ mang đến cho quý độc giả những bài thơ còn lại của nhóm thơ này, chắc chắn sẽ khiến các bạn thích thú và hài lòng. Đây là một nhóm thơ nổi tiếng của nhà thơ Ấn Độ Tagore Rabindranath

Sau đây, chúng tôi xin mời các bạn đến với một thế giới thơ ca đặc sắc nhất. Hãy đón xem và chia sẻ cảm nhận của mình cho uct.edu.vn để chúng tôi ngày một hoàn thiện hơn nhé!

Bài số 64

I spent my day on the scorching hot dust of the road.
Now, in the cool of the evening, I knock at the door of the inn. It is deserted and in ruins.
A grim ashath tree spreads its hungry clutching roots through the gaping fissures of the
walls.
Days have been when wayfarers came here to wash their weary feet.
They spread their mats in the courtyard in the dim light of the early moon, and sat and
talked of strange lands.
They woke refreshed in the morning when birds made them glad, and friendly flowers
nodded their heads at them from the wayside.
But no lighted lamp awaited me when I came here.
The black smudges of smoke left by many a forgotten evening lamp stare, like blind
eyes, from the wall.
Fireflies flit in the bush near the dried-up pond, and bamboo branches fling their
shadows on the grass-grown path.
I am the guest of no one at the end of my day.
The long night is before me, and I am tired.

Dịch

Suốt ngày tôi ngồi chơi trên bụi đường nóng bỏng. Bây giờ đêm xuống, trời mát dịu, tôi tới gõ cửa quán trọ. Quán vắng tanh, nằm hoang tàn.
Cây át-ha lãnh đạm trải rễ đói khát, ngoằn ngèo qua những vết tường nứt nẻ há hốc.
Đã có ngày khách qua đường tới đây rửa đôi chân thấm mệt. Họ trải chiếu trên sân dưới ánh trăng non lờ mờ rồi nghỉ ngơi trò chuyện về những miền xa xôi.
Sáng đến thức dậy họ cảm thấy sảng khoái khi chim chóc líu lo, khi những bông hoa hiền lành đứng bên vệ đường gật đầu chào đón.
Nhưng lúc tôi tới đây, không có đèn thắp sáng đợi chờ. Trên tường quán, do ánh đèn thắp đêm bị bỏ quên, những vệt khói đen còn sót lại trừng trừng nhìn trông giống như những cặp mắt đui mù.
Trong bụi rậm gần một ao cạn nước đom đóm lập loè bay; cành tre vươn bóng trên lối mòn rậm cỏ.
Tôi là người khách cô độc lúc ngày khép kín.
Đêm trải dài trước mặt, tôi đã mệt nhừ.

Bài số 65

Is that your call again?
The evening has come. Weariness clings round me like the arms of entreating love.
Do you call me?
I had given all my day to you, cruel mistress, must you also rob me of my night?
Somewhere there is an end to everything, and the loneness of the dark is one’s own.
Must your voice cut through it and smite me?
Has the evening no music of sleep at your gate?
Do the silent-winged stars never climb the sky above your pitiless tower?
Do the flowers never drop on the dust in soft death in your garden?
Must you call me, you unquiet one?
Then let the sad eyes of love vainly watch and weep.
Let the lamp burn in the lonely house.
Let the ferry-boat take the weary labourers to their home.
I leave behind my dreams and I hasten to your call.

Dịch

Em lại gọi lần nữa?
Đêm đã xuống từ lâu. Mệt mỏi giăng mắc quanh tôi như vòng tay tình yêu quyến rũ. Em gọi tôi, phải không em?
Ôi người đẹp tàn ác, ngày dài tôi đã dâng em trọn vẹn còn đêm trường em muốn chiếm hốt nữa sao?
Mọi việc tất sẽ chấm dứt ở nơi nào đó, song đêm dài cô đơn phải thuộc riêng mình. Sao em phải lên tiếng gọi để phá tan đêm tối cô liêu và bóp nát lòng tôi?
Thế đêm không có giai điệu chờ sẵn ngoài cổng để ru em vào mộng đẹp? Thế sao trời đã khép cánh im lìm thôi không xuất hiện trên đỉnh tháp vô tình nơi em đang đứng? Thế hoa trong vườn nhà em không còn rũ cành chết nhẹ nhàng trên mặt đất nữa ư?
Sao phải gọi tôi, hỡi người em da diết?
Thôi cứ để mắt buồn của tình yêu ngóng chờ và nhỏ lệ, để đèn tỏa sáng trong căn nhà quạnh hiu, để thuyền đưa công nhân mỏi mệt về nhà.
Tôi bỏ lại sau mình mộng đẹp, hối hả chạy theo tiếng em đang réo gọi.

Bài số 66

A wandering madman was seeking the touchstone, with matted locks, tawny and
dust-laden, and body worn to a shadow, his lips tight-pressed, like the shut-up doors of
his heart, his burning eyes like the lamp of a glow-worm seeking its mate.
Before him the endless ocean roared.
The garrulous waves ceaselessly talked of hidden treasures, mocking the ignorance that
knew not their meaning.
Maybe he now had no hope remaining, yet he would not rest, for the search had become
his life, ⎯
Just as the ocean for ever lifts its arms to the sky for the unattainable ⎯
Just as the stars go in circles, yet seeking a goal that can never be reached ⎯
Even so on the lonely shore, the madman with dusty tawny locks still roamed in search
of the touchstone.
One day a village boy came up and asked, “Tell me, where did you come at this golden
chain about your waist?”
The madman started ⎯ the chain that once was iron was verily gold; it was not a dream,
but he did not know when it had changed.
He struck his forehead wildly ⎯ where, O where had he, without knowing it, achieved
success?
It had grown into a habit, to pick up pebbles and touch the chain, and to throw them
away without looking to see if a change had come; thus the madman found and lost the
touchstone.
The sun was sinking low in the west, the sky was of gold.
The madman returned on his footsteps to seek anew the lost treasure, with his strength
gone, his body bent, and his heart in the dust, like a tree uproote

Dịch

Tóc kết thành lọn, mình dính đầy bùn, làn da xạm nắng, người gầy đét như một cái bóng, môi mím chặt như cửa tâm hồn khép kín, mắt nẩy lửa hệt đom đóm lập loè bay tìm tình nhân, gã điên lang thang tìm kiếm hòn đá thử vàng.
Trước mặt gã biển xanh mênh mông gầm thét. Sóng bạc đầu huyên thuyên trò chuyện về những kho tàng chôn giấu, giễu nhạo kẻ xuẩn ngu không hiểu ý nghĩa lời sóng nói.
Có lẽ lúc này gã đang tuyệt vọng. Dẫu vậy, chẳng chịu bó tay, vì đối với gã cuộc kiếm tìm đã trở thành lẽ sống.
Cũng như biển cả mãi mãi vươn tay lên bầu trời tìm cái không thể với tới
Cũng như các vì sao xoay vần tìm kiếm mục tiêu chẳng bao giờ tới được.
Dẫu thế, trên bờ hoang lạnh, gã điên, tóc hung vàng bụi bám, vẫn thơ thẩn tìm hòn đá thử vàng.
Một hôm có em nhỏ từ làng ra hỏi: “Ông ơi, đi về đâu mà bụng đeo dây chuỗi vàng nặng thế?”
Gã điên bàng hoàng – chuỗi gã đeo trước kia là sắt bây giờ lại biến thành vàng thực sự. Chẳng phải rằng mơ; tuy nhiên gã không biết dây chuỗi biến dạng lúc nào.
Gã nắm tay đập trán lia lịa – dây chuỗi biến thành báu vật ở chỗ nào, ừ ở chỗ nào mà gã không hay?
Gã có thói quen lượm nhặt cuội sỏi, vuốt ve dây chuỗi và ném cuội sỏi ra xa mà chẳng thèm nhìn theo xem chúng thay đổi thế nào. Cứ thế gã điên tìm thấy rồi lại vất đi hòn đá thử vàng.
Mặt trời đang chìm sâu ở phương tây, bầu trời vàng ửng. Gã điên lê gót trở lại kiếm tìm lần nữa báu vật không còn, sức kiệt quệ, thân lom khom, tâm hồn lấm bụi tựa cây cao bật rễ đổ kềnh

Bài số 67

Though the evening comes with slow steps and has signalled for all songs to cease;
Though your companions have gone to their rest and you are tired;
Though fear broods in the dark and the face of the sky is veiled;
Yet, bird, O my bird, listen to me, do not close your wings.
That is not the gloom of the leaves of the forest, that is the sea swelling like a dark black
snake.
That is not the dance of the flowering jasmine, that is flashing foam.
Ah, where is the sunny green shore, where is your nest?
Bird, O my bird, listen to me, do not close your wings.
The lone night lies along your path, the dawn sleeps behind the shadowy hills.
The stars hold their breath counting the hours, the feeble moon swims the deep night.
Bird, O my bird, listen to me, do not close your wings.
There is no hope, no fear for you.
There is no word, no whisper, no cry.
There is no home, no bed of rest.
There is only your own pair of wings and the pathless sky.
Bird, O my bird, listen to me, do not close your wings.

Dịch

Dù chiều xuống dần chầm chậm ra hiệu cho mọi lời ca bặt tiếng.
Dù bạn bè mi đã ngon giấc trọng tổ ấm và mi đã mệt nhoài.
Dù hãi hùng đang bao trùm đêm tối và bầu trời mây phủ kín bưng.
Song, chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.
Đó không phải là vẻ âm u của lá rừng; đó là sóng biển dâng cao như con rắn đen ngòm; đó không phải là vũ điệu của hoa nhài phảng phất; đó là bọt biển bay tung. Ờ mà biển xanh ngập nắng ở phương nào nhỉ? Ờ mà tổ ấm của mi ở nơi nào nhỉ? Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.
Đêm quạnh hiu trải dài trước hương mi đi; bình minh còn ngon giấc sau đồi cây rợp bóng.
Sao trên cao nín thở đếm thời gian; trăng ẻo lả bơi trong đêm chìm lặng. Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.
Mi không nuôi hy vọng, không bận lo âu.
Mi không kêu la, thì thầm, than van.
Mi không nhà, không giường để nghỉ.
Mi chỉ có đôi cánh riêng tư và bầu trời bao la.
Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.

Bài số 68

None lives for ever, brother, and nothing lasts for long. Keep that in mind and rejoice.
Our life is not the one old burden, our path is not the one long journey.
One sole poet has not to sing one aged song.
The flower fades and dies; but he who wears the flower has not to mourn for it for ever.
Brother, keep that in mind and rejoice.
There must come a full pause to weave perfection into music.
Life droops toward its sunset to be drowned in the golden shadows.
Love must be called from its play to drink sorrow and be borne to the heaven of tears.
Brother, keep that in mind and rejoice.
We hasten to gather our flowers lest they are plundered by the passing winds.
It quickens our blood and brightens our eyes to snatch kisses that would vanish if we
delayed.
Our life is eager, our desires are keen, for time tolls the bell of parting.
Brother, keep that in mind and rejoice.
There is not time for us to clasp a thing and crush it and fling it away to the dust.
The hours trip rapidly away, hiding their dreams in their skirts.
Our life is short; it yields but a few days for love.
Were it for work and drudgery it would be endlessly long.
Brother, keep that in mind and rejoice.
Beauty is sweet to us, because she dances to the same fleeting tune with our lives.
Knowledge is precious to us, because we shall never have time to complete it.
All is done and finished in the eternal Heaven.
But earth’s flowers of illusion are kept eternally fresh by death.
Brother, keep that in mind and rejoice

Dịch

Chẳng ai sống đời đời kiếp kiếp, chẳng cái gì vĩnh viễn không phai. Này, người anh em, nhớ kỹ điều đó và vui lên mà sống.
Đời ta đang sống đâu phải gánh nặng duy nhất từ xưa để lại; đường ta đang đi đâu phải cuộc hành trình đơn độc dài vô tận, vô cùng.
Một thi nhân riêng mình chẳng phải viết bài ca trường cửu. Hoa nở rồi tàn; nhưng ai đó đã cài hoa lên áo cũng chẳng cần khóc thương hoa mãi mãi bao giờ. Này, người anh em, nhớ kỹ điều đó và vui lên mà sống.
Một ngưng nghỉ vẹn trọn tất nhiên phải tới để dệt tuyệt hảo thành âm giai. Cuộc đời rủ xuống lúc hoàng hôn rủ xuống để chìm sâu vào bóng chiều vàng ửng. Phải gọi tình yêu đang đi lang thang trở lại để uống cạn sầu bi và phải đưa tình yêu lên trời ngập đầy nước mắt. Này, người anh em, nhớ kỹ điều đó và vui lên mà sống.
Ta vội vã hái hoa vì sợ gió lướt qua tàn phá. Máu ta rạo rực, mắt ta sáng ngời khi đón nhận những nụ hôn âu yếm, những nụ hôn sẽ tàn phai nếu ta chậm trễ.
Đời ta hăm hở, ước vọng thiết tha, vì thời gian sẽ điểm giờ vĩnh biệt. Này, người anh em, nhớ kỹ điều đó và vui lên mà sống.
Ta chẳng đủ thời gian để nắm chặt trong tay một vật, bóp nát rồi vứt vào cát bụi. Giờ khắc đi mau vun vút, giấu bên trong áo mặc biết bao mộng lành. Đời ta ngắn ngủi, chỉ có vài ngày dành cho yêu thương! Nếu sinh ra để lao khổ, để nhọc nhằn đời sẽ dài vô tận. Này, người anh em, nhớ kỹ điều đó và vui lên mà sống.
Đối với ta đẹp rất dịu hiền, vì lẽ đẹp đang cùng ta khiêu vũ theo nhịp điệu trôi chảy vội vàng.
Đối với ta tri thức là quý báu, vì lẽ không bao giờ ta có đủ thời gian nắm thâu tất cả. Mọi việc đã được hoàn tất và an bài ở trên Trời vĩnh cửu. Nhưng chết chóc đã giữ cho hoa ảo mộng của trần gian vĩnh viễn mát tươi. Này, người anh em, nhớ kỹ điều đó và vui lên mà sống

Bài số 69

I hunt for the golden stag.
You may smile, my friends, but I pursue the vision that eludes me.
I run across hills and dales, I wander through nameless lands, because I am hunting for
the golden stag.
You come and buy in the market and go back to your homes laden with goods, but the
spell of the homeless winds has touched me I know not when and where.
I have no care in my heart; all my belongings I have left far behind me.
I run across hills and dales, I wander through nameless lands ⎯ because I am hunting
for the golden stag.

Dịch

Tôi đuổi theo con hươu rừng vàng lông.
Có thể các bạn sẽ mỉm cười, nhưng tôi cứ đuổi theo ảo ảnh, ảo ảnh tuột thoát tầm tay.
Tôi băng qua đồi cao, qua thung lũng và lang thang trong miền đất không tên, vì lẽ tôi đang săn đuổi con hươu rừng vàng lông.
Các bạn đi chợ mua mua sắm sắm rồi lại về nhà với bao phẩm vật, song tôi chẳng hiểu lúc nào và ở đâu sức quyến rũ của gió không nhà đã xâm nhập vào tôi.
Lòng không hề ưu tư; tôi đã bỏ lại thật xa đằng sau tất cả những gì mình có. Tôi băng qua đồi cao, qua thung lũng và lang thang trong miền đất không tên, vì lẽ tôi đang săn đuổi con hươu rừng vàng lông.

Bài số 70

I remember a day in my childhood I floated a paper boat in the ditch.
It was a wet day of July; I was alone and happy over my play. I floated my paper boat in
the ditch.
Suddenly the storm clouds thickened, winds came in gusts, and rain poured in torrents.
Rills of muddy water rushed and swelled the stream and sunk my boat.
Bitterly I thought in my mind that the storm came on purpose to spoil my happiness; all
its malice was against me.
The cloudy day of July is long to-day, and I have been musing over all those games in
life wherein I was loser.
I was blaming my fate for the many tricks it played on me, when suddenly I remembered
the paper boat that sank in the ditch.

Dịch

Tôi nhớ một ngày khi còn thơ ấu đi thả thuyền giấy trong lạch nước. Ngày đó tháng bảy mưa sụt sùi; chỉ có một mình, song tôi sung sướng với trò chơi. Tôi thả chiếc thuyền giấy bồng bềnh trên lạch nước.
Bỗng dưng, mây phong ba kéo kín bầu trời; gió thổi mạnh từng cơn rồi mưa đổ ào như thác lũ. Nhiều lằn nước đục ngầu tràn tới làm suối dâng cao và nhận chìm con thuyền tôi thả.
Chua xót, tôi thầm nghĩ phong ba đến với ý định tàn ác chống lại và chỉ nhằm huỷ diệt hạnh phúc của riêng tôi.
Ngày tháng bảy u ám hôm nay dài ghê gớm. Tôi vẫn hằng ngẫm suy về những trò chơi trong cuộc đời mà mình là kẻ thiệt thua.
Đang than trách số phận bao phen trêu cợt đọa đầy, bỗng dưng tôi chợt nhớ con thuyền giấy đã chìm trong lạch nước.

Bài số 71

The day is not yet done, the fair is not over, the fair on the river-bank.
I had feared that my time had been squandered and my last penny lost.
But no, my brother, I have still something left. My fate has not cheated me of everything.
The selling and buying are over.
All the dues on both sides have been gathered in, and it is time for me to go home.
But, gatekeeper, do you ask for your toll?
Do not fear, I have still something left. My fate has not cheated me of everything.
The lull in the wind threatens storm, and the lowering clouds in the west bode no good.
The hushed water waits for the wind.
I hurry to cross the river before the night overtakes me.
O ferryman, you want your fee!
Yes, brother, I have still something left. My fate has not cheated me of everything.
In the wayside under the tree sits the beggar. Alas, he looks at my face with a timid
hope!
He thinks I am rich with the day’s profit.
Yes, brother, I have still something left. My fate has not cheated me of everything.
The night grows dark and the road lonely. Fireflies gleam among the leaves.
Who are you that follow me with stealthy silent steps?
Ah, I know, it is your desire to rob me of all my gains. I will not disappoint you!
For I still have something left, and my fate has not cheated me of everything.
At midnight I reach home. My hands are empty.
You are waiting with anxious eyes at my door, sleepless and silent.
Like a timorous bird you fly to my breast with eager love.
Ay, ay, my God, much remains still. My fate has not cheated me of everything.

Dịch

Ngày chưa hết, chợ chưa tan; chợ họp bên sông.
Tôi lo sợ vì đã phí phạm thì giờ cùng đồng tiền cuối cùng mình có. Nhưng không, người anh em tôi ơi, tôi vẫn còn vài thứ chưa tiêu đến. Số mệnh chưa hề gạt lường làm tôi mất cả.
Việc mua bán xong xuôi, tiền trả đầy đủ. Bây giờ là lúc về nhà. Này, ông gác cổng, ông có đòi tiền mãi lộ hay không? Đừng có sợ, tôi vẫn còn vài thứ chưa tiêu đến. Số mệnh chưa hề gạt lường làm tôi mất cả.
Gió lắng dịu đe dọa cơn dông sắp tới. Phương tây mây xuống thấp báo hiệu trận phong ba. Mặt nước nằm im chờ gió. Tôi vội vã qua sông trước khi màn đêm buông phủ. Này, bác lái đò, bác có lấy tiền quá giang không hở? Vâng, người anh em tôi hỡi, tôi vẫn còn vài thứ chưa tiêu đến. Số mệnh chưa hề gạt lường làm tôi mất cả.
Bên vệ đường dưới bóng cây cao có người hành khất ngồi một mình. Than ôi! Lão nhìn thẳng mặt tôi với niềm hy vọng mong manh. Lão tưởng tôi giàu có nhờ lợi tức bán buôn trong ngày! Vâng, người anh em tôi hỡi, tôi vẫn còn vài thứ chưa tiêu đến. Số mệnh chưa hề gạt lường làm tôi mất cả.
Đêm vào sâu, đường vắng tanh. Đom đóm lập loè trong lá cây. Anh là ai đang bước theo tôi âm thầm, lén lút? Vâng, tôi biết anh đang định đoạt cướp những gì tôi có. Tôi sẽ không để anh thất vọng đâu má Vì lẽ tôi vẫn còn vài thứ chưa tiêu đến. Số mệnh chưa hề gạt lường làm tôi mất cả.
Tôi về nhà lúc nửa đêm, không còn gì trong tay. Em đang đứng chờ trước cổng nhà tôi, mắt lo âu, thao thức, âm thầm. Như con chim nhỏ bẽn lẽn, rụt rè, em sà vào lòng tôi với tình yêu sôi nổi. Vâng, thưa Thượng Đế, tôi vẫn còn nhiều thứ chưa tiêu đến. Số mệnh chưa hề gạt lường làm tôi mất cả.

Bài số 74

In the world’s audience hall, the simple blade of grass sits on the same carpet with the
sunbeam and the stars of midnight.
Thus my songs share their seats in the heart of the world with the music of the clouds
and forests.
But, you man of riches, your wealth has no part in the simple grandeur of the sun’s glad
gold and the mellow gleam of the musing moon.
The blessing of the all-embracing sky is not shed upon it.
And when death appears, it pales and withers and crumbles into dust.

Dịch

Trong thính đường vũ trụ bao la lá cỏ đơn thuần nằm với ánh mặt trời và các vì sao khuya trên cùng tấm thảm.
Bài ca của tôi cũng nằm cùng lá cỏ, ánh dương và sao đêm trong lòng vũ trụ ngập tràn giai điệu từ rừng thẳm và mây cao.
Nhưng, hỡi các người giàu có, các người chẳng đóng góp được gì vào vẻ rực rỡ đơn thuần của ánh dương vàng tươi và ánh trăng trầm tư chín ửng.
Nguồn vui của bầu trời bao la không vãi trên lá cỏ. Khi sự chết xuất hiện, lá cỏ phai sắc, ú héo rồi nát mục biến thành cát bụi

Bài số 75

At midnight the would-be ascetic announced:
“This is the time to give up my home and seek for God. Ah, who has held me so long in
delusion here?”
God whispered, “I,” but the ears of the man were stopped.
With a baby asleep at her breast lay his wife, peacefully sleeping on one side of the bed.
The man said, “Who are ye that have fooled me so long?”
The voice said again, “They are God,” but he heard it not.
The baby cried out in its dream, nestling close to its mother.
God commanded, “Stop, fool, leave not thy home,” but still he heard not.
God sighed and complained, “Why does my servant wander to seek me, forsaking me?”

Dịch

Nửa đêm một người rắp tâm làm ẩn sĩ nói lớn: “Bây giờ là lúc phải từ giã gia đình đi tìm Thượng Đế. Ừ nhỉ, ai đã giam ta trong ảo tưởng trần gian dài lâu đến thế?”
Thượng Đế thì thầm: “Ta chứ còn ai”, nhưng ẩn sĩ không nghe thấy. Vợ anh đang ngủ êm đềm; nàng nằm một phía giường, ôm con nhỏ bên ngực.
An sĩ nói: “Các người là ai mà làm ta lẫn lầm dài lâu đến thế?”
Tiếng nói lại vang lên: “Họ là Thượng Đế”, nhưng ẩn sĩ không nghe thấy. Đứa nhỏ oe khóc trong mơ rồi rúc đầu vào ngực mẹ.
Thượng Đế phán: “Này, tên khùng dại, đừng bỏ gia đình”, nhưng ẩn sĩ không nghe thấy.
Thượng Đế thở dài, than vãn: “Tại sao tôi bộc của ta lại phải lang thang tìm kiếm chính ta; tôi bộc, người chối bỏ ta chăng?”

Bài số 76

The fair was on before the temple. It had rained from the early morning and the day
came to its end.
Brighter than all the gladness of the crowd was the bright smile of a girl who bought for a
farthing a whistle of palm leaf.
The shrill joy of that whistle floated above all laughter and noise.
An endless throng of people came and jostled together. The road was muddy, the river
in flood, the field under water in ceaseless rain.
Greater than all the troubles of the crowd was a little boy’s trouble ⎯ he had not a
farthing to buy a painted stick.
His wistful eyes gazing at the shop made this whole meeting of men so pitiful.

Dịch

Chợ họp trước miếu thờ. Trời mưa từ sáng sớm, màn đêm đang dần buông.
Tươi sáng hơn nguồn hân hoan trên nét mặt mọi người trong chợ là nụ cười tươi tắn trên khuôn mặt một thiếu nữ – em lấy một hào mua chiêc còi làm bằng lá kè để thổi.
Tiếng còi vui tươi, lanh lảnh bồng bềnh lướt trên tất cả tiếng cười cùng tiếng động.
Người người lũ lượt chen nhau đổ đến xem. Đường đi lầy lội, dòng sông dâng tràn, cánh đồng ngập sũng dưới mưa tầm tã.
Lớn lao hơn nỗi ưu tư của mọi người trong chợ là nỗi ưu phiền của một thiếu niên – em không có một hào mua cây gậy sơn màu để nghịch.
Cặp mắt thèm thuồng, em nhìn cửa hiệu khiến cả chợ mủi lòng thương.

Bài số 77

The workman and his wife from the west country are busy digging to make bricks for the
kiln.
Their little daughter goes to the landing-place by the river; there she has no end of
scouring and scrubbing of pots and pans.
Her little brother, with shaven head and brown, naked, mud-covered limbs, follows after
her and waits patiently on the high bank at her bidding.
She goes back home with the full pitcher poised on her head, the shining brass pot in
her left hand, holding the child with her right she the tiny servant of her mother, grave
with the weight of the household cares.
One day I saw this naked boy sitting with legs outstretched.
In the water his sister sat rubbing a drinking-pot with a handful of earth, turning it round
and round.
Near by a soft-haired lamb stood grazing along the bank.
It came close to where the boy sat and suddenly bleated aloud, and the child started up
and screamed.
His sister left off cleaning her pot and ran up.
She took up her brother in one arm and the lamb in the other, and dividing her caresses
between them bound in one bond of affection the offspring of beast and man.

Dịch

Hai vợ chồng công nhân từ làng quê miền tây tới đang lúi húi đào đất làm gạch đưa vào lò nung.
Đứa gái nhỏ con họ ra bến thuyền bên sông; em ngồi đó luôn tay cọ rửa chậu hoa và xoong chảo. Thằng em trai – đầu nhẵn thin, mình trần truồng, tay chân lấm bùn – lẽo đẽo theo sau và kiên nhẫn ngồi chờ trên bờ sông cao theo lời chị dặn.
Em gái nhỏ trở về nhà đầu đội bình đầy dắp, tay phải ẵm em thơ, tay trái mang lọ hoa bằng đồng bóng loáng; em là tên tôi bộc tí hon của mẹ, nét mặt đăm chiêu vì công việc bề bộn trong nhà.
Một hôm, tôi nom thấy thằng bé trần truồng ngồi hai chân ruỗi thẳng. Chị bé ngồi dưới sông cọ rửa bình đựng nước dính đầy bùn, xoay đi xoay lại. Gần đó một con cừu non, lông tơ mềm mại, đang gậm cỏ bên bờ sông, con cừu tới gần chỗ bé rồi bất chợt kêu lớn be be. Bé giật mình khóc thét.
Chị bé dừng tay rửa lọ vội vã chạy lên. Một tay bồng em trai, một tay ôm cừu non, âu yếm hôn đều thằng nhỏ rồi con vật; chị bé thắt chặt cả hai, hậu duệ loài người và loài vật, trong vòng dây yêu thương

Bài số 78

It was in May. The sultry noon seemed endlessly long. The dry earth gaped with thirst
in the heat.
When I heard from the riverside a voice calling, “Come, my darling!”
I shut my book and opened the window to look out.
I saw a big buffalo with mud-stained hide standing near the river with placid, patient
eyes; and a youth, knee-deep in water, calling it to its bath.
I smiled amused and felt a touch of sweetness in my heart.

Dịch

Trời vào tháng năm. Buổi trưa ngột ngạt dường như dài vô cùng. Mặt đất cằn khô nằm há hốc thèm nước dưới ánh nắng đốt thiêu.
Bất chợt tôi nghe thấy tiếng gọi “Lại đây cưng” vọng từ bờ sông lại.
Gấp cuốn sách đang đọc, mở cửa sổ nhìn ra, tôi thấy một con trâu to lớn, mình lấm đầy bùn đứng nấp gần bờ sông, hai mắt thanh thản, kiên nhẫn ngóng chờ, và một thiếu niên, dầm chân dưới nước, gọi trâu xuống tắm dưới giòng.
Tôi mỉm cười thích thú, một cảm giác dêm dịu nhẹ lướt trong lòng.

Bài số 79

Why do you whisper so faintly in my ears, O Death, my Death?
When the flowers droop in the evening and cattle come back to their stalls, you stealthily
come to my side and speak words that I do not understand.
Is this how you must woo and win me with the opiate of drowsy murmur and cold kisses,
O Death, my Death?
Will there be no proud ceremony for our wedding?
Will you not tie up with a wreath your tawny coiled locks?
Is there none to carry your banner before you, and will not the night be on fire with your
red torch-lights, O Death, my Death?
Come with your conch-shells sounding, come in the sleepless night.
Dress me with a crimson mantle, grasp my hand and take me.
Let your chariot be ready at my door with your horses neighing impatiently.
Raise my veil and look at my face proudly, O Death, my Death!

Dịch

Ôi Thần Chết, Thần Chết của ta, sao yếu ớt đến thế tiếng mi vào tai ta thì thầm?
Đêm về khi loài hoa rũ cánh, khi mục súc về chuồng, mi lén lút tới bên ta nói những lời ta không hiểu nổi.
Phải chăng đó là phương cách mi quyến rũ rồi chiến thắng riêng ta, bằng chất ma tuý của những nụ hôn giá lạnh, bằng tiếng thều thào ngái ngủ, hở Thần Chết, Thần Chết của ta.
Thế khi chúng mình cười nhau không có gì ư lễ nghĩ trang trọng?
Thế mi không kết vòng hoa lên mái tóc hung hung cuốn thành lọn hay sao?
Không có ai mang cờ hiệu của mi dẫn lối đưa đường, và đêm tối không vì đuốc lửa đỏ loè mà sáng rực hay sao, hở Thần Chết, Thần Chết của ta.
Hãy đến với ta cùng tiếng tù và mi thổi.
Hãy đến vào lúc đêm khuya thao thức, mi ơi.
Và khoác cho ta tấm áo màu đỏ sẫm.
Rồi nắm chặt tay ta mà dẫn ta đi.
Để xe chờ ta sẵn sàng ngoài cổng, mặc bầy ngựa đang hí giục nóng lòng.
Hãy vén màn che mặt, nhìn thẳng mặt ta đang kiêu hãnh, Thần Chết ạ, Thần Chết của ta.

Bài số 80

We are to play the game of death to-night, my bride and I.
The night is black, the clouds in the sky are capricious, and the waves are raving at sea.
We have left our bed of dreams, flung open the door and come out, my bride and I.
We sit upon a swing, and the storm winds give us a wild push from behind.
My bride starts up with fear and delight, she trembles and clings to my breast.
Long have I served her tenderly.
I made for her a bed of flowers and I closed the doors to shut out the rude light from her
eyes.
I kissed her gently on her lips and whispered softly in her ears till she half swooned in
languor.
She was lost in the endless mist of vague sweetness.
She answered not to my touch, my songs failed to arouse her.
To-night has come to us the call of the storm from the wild.
My bride has shivered and stood up, she has clasped my hand and come out.
Her hair is flying in the wind, her veil is fluttering, her garland rustles over her breast.
The push of death has swung her into life.
We are face to face and heart to heart, my bride and I.

Dịch

Đêm nay tân giai nhân và tôi sẽ chơi trò chơi chết chóc.
Trời đêm tối thui, mây cao bảng lảng, sóng biển đang gầm thét điên cuồng.
Chúng tôi rời giường mộng, mở tung cửa, bước ra ngoài.
Chúng tôi ngồi trên cái đu, gió phong ba thổi đằng sau điên dại.
Người yêu của tôi giậc mình sợ hãi và thích thú, nàng run rẩy rồi ngả vào lòng tôi.
Đã từ lâu tôi hằng âu yếm, hầu hạ nàng.
Tôi trải hoa làm giường nàng ngủ, tôi khép cửa lại ngăn ánh sáng thô kệch khỏi lọt vào làm chói mắt nàng.
Tôi âu yếm hôn lên môi và dịu dàng thì thầm bên tai cho đến khi nàng gần như ngất xỉu, đẫn đờ.
Nàng chìm vào màn sương mênh mông của lạc thú ngất ngây.
Nàng bất động khi tôi ve vuốt; lời tôi ca cũng chẳng thể làm nàng tỉnh dậy.
Đêm nay từ miền hoang vu phong ba cất tiếng gọi.
Tân giai nhân của tôi run rẩy; nàng đứng dậy, nắm tay tôi rồi bước ra ngoài.
Tóc tung bay trong gió, màn che mặt phất phơ, vòng hoa trên ngực rung rinh.
Chết đã đẩy mạnh nàng vào cuộc sống. Tân giai nhân và tôi nhìn nhau, mặt gần mặt, tim gần tim.

Bài số 81

She dwelt on the hillside by the edge of a maize-field, near the spring that flows in
laughing rills through the solemn shadows of ancient trees. The women came there to
fill their jars, and travellers would sit there to rest and talk. She worked and dreamed
daily to the tune of the bubbling stream.
One evening the stranger came down from the cloud-hidden peak; his locks were
tangled like drowsy snakes. We asked in wonder, “Who are you?” He answered not but
sat by the garrulous stream and silently gazed at the hut where she dwelt. Our hearts
quaked in fear and we came back home when it was night.
Next morning when the women came to fetch water at the spring by the deodar trees,
they found the doors open in her hut, but her voice was gone and where was her smiling
face? The empty jar lay on the floor and her lamp had burnt itself out in the corner. No
one knew where she had fled to before it was morning ⎯ and the stranger had gone.
In the month of May the sun grew strong and the snow melted, and we sat by the spring
and wept. We wondered in our mind, “Is there a spring in the land where she has gone
and where she can fill her vessel in these hot thirsty days?” And we asked each other in
dismay, “Is there a land beyond these hills where we live?” 
It was a summer night; the breeze blew from the south; and I sat in her deserted room
where the lamp stood still unlit. When suddenly from before my eyes the hills vanished
like curtains drawn aside. “Ah, it is she who comes. How are you, my child? Are you
happy? But where can you shelter under this open sky? And, alas! our spring is not
here to allay your thirst.”
“Here is the same sky,” she said, “only free from the fencing hills, ⎯ this is the same
stream grown into a river, ⎯ the same earth widened into a plain.” “Everything is here,”
I sighed, “only we are not.” She smiled sadly and said, “You are in my heart.” I woke up
and heard the babbling of the stream and the rustling of the deodars at night.

Dịch

Nàng sống trên sườn đồi, cạnh ruộng lúa ngô, bên dòng suối nhỏ; suối chảy vào khe lạch reo cười qua bóng cây cổ thụ âm u.
Những người đàn bà thường mang thùng ra đó gánh nước, và khách qua đường cũng hay ngừng ở đấy ngơi nghỉ chuyện trò.
Hàng ngày nàng làm việc và thả hồn mơ theo tiếng suối róc rách.
Một chiều có người khách lạ, tóc xoắn quăn như rắn nằm ngủ, từ đỉnh núi phủ đầy mây đi xuống.
Chúng tôi ngạc nhiên hỏi: “Ông là ai?” Ngườ đó không trả lời, nhưng ngồi xuống bên dòng suối rạt rào tuôn nước, rồi im lặng ngắm ngôi lều tranh của nàng. Tim chúng tôi rung lên sợ sệt; chúng tôi trở về nhà khi màn đêm từ từ buông.
Sáng hôm sau, lúc ra suối gánh nước gần đám cây bá hương, những người đàn bà thấy cửa nhà nàng mở toang. Tuy nhiên, họ không nghe thấy tiếng nàng nói và cũng chẳng thấy khuôn mặt hớn hở của nàng đâu cả.
Chiếc thùng nước rỗng không nằm tròng trơ trên nền nhà, ngọn đèn trong xó đà cháy cạn dần. Chẳng ai rõ nàng đã trốn đi phương nào, trước lúc bình minh – và người khách lạ cũng đi rồi.
Vào tháng năm, mặt trời nắng gắt, tuyết tan thành nước. Chúng tôi ngồi bên suối, buồn rầu, nức nở, rồi thầm hỏi nhau: “Nơi nàng tới có suối hay không để nàng gánh nước trong những ngày nóng nực cạn khô này? Phía bên kia lớp đồi, nơi chúng mình đang sống, có ruộng đất gì chăng?”
Một đêm hé gió từ phương nam thổi về. Tôi ngồi trong căn phòng bỏ hoang của nàng, trong đó cây đèn đứng buồn thiu không lửa cháy.
Bỗng dưng, từ phía trước mặt tôi dẫy đồi biến mất, như những màn che kéo sang một bên. “Ừ, đúng rồi, nàng đang tới. Thế nào, em có mạnh khoẻ và hạnh phúc hay không? Nhưng, dưới bầu trời bao la này, em đã náu thân ở nơi nào vậy? Hỡi ôi! Suối của chúng ta lại không ở đây để cho em đỡ khát.”
Nàng nói: “Ở đây cũng dưới cùng một bầu trời. Khác chăng là không có đồi xanh bao quanh; ở đây cũng cùng con suối chảy thành dòng sông, cũng cùng mặt đất trải rộng thành đồng bằng”.
Tôi thở dài: “Ở đây có tất cả, chỉ trừ đôi ta”. Nàng mỉm cười buồn bã, rồi tiếp lời: “Anh ở trong tim em”.
Tôi choáng tỉnh, rồi chợt nghe tiếng suối thì thầm, và tiếng lá bá hương đêm khuya sột soạt.

Bài số 82

Over the green and yellow rice-fields sweep the shadows of the autumn clouds
followed by the swift-chasing sun.
The bees forget to sip their honey; drunken with light they foolishly hover and hum.
The ducks in the islands of the river clamour in joy for mere nothing.
Let none go back home, brothers, this morning, let none go to work.
Let us take the blue sky by storm and plunder space as we run.
Laughter floats in the air like foam on the flood.
Brothers, let us squander our morning in futile songs.

Dịch

Bóng mây thu lướt trên đồng lúa vàng xanh, mặt trời theo sau vun vút đuổi bắt.
Ong quên hút mật, say nhừ ánh dương, ngẩn ngơ bay bay lượn lượn.
Trên gò đất giữa dòng sông đàn vịt thi nhau cất tiếng kêu bâng quơ.
Này, anh em ơi, sáng nay đừng ai về nhà nhé, đừng ai đi làm nhá, nghe chưa.
Chúng mình sẽ bắt giữ trời xanh bằng phong ba và cướp phá không gian khi cùng nhau ùa chạy.
Tiếng cười bồng bềnh trôi trong khoảng không như bọt sóng dập dờn trên mặt nước tràn mênh mông.
Này, anh em ơi, ta hãy tiêu hoang sáng nay bằng những bài ca vu vơ, tầm phào, nghe chưa

Trên đây uct.edu.vn đã tiếp nối bài viết Người làm vườn – Nhóm thơ nổi bật của Tagore Rabindranath phần 4 bằng những bài thơ hay còn lại trong tập này. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!