Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh cùng chùm thơ dịch của Petőfi Sándor phần 4

Nguyễn Xuân Sanh là một thi sĩ được bạn đọc ngợi ca và là một gương mặt nổi bật trên văn đàn Việt Nam. Những bài thơ của ông thắm đượm nỗi suy tư, trăn trở bộc lộ tình cảm mãnh liệt. Qua những tác phẩm chúng ta lại thêm phần cảm phục sự tài hoa của ông. Ngoài vai trò là một nhà thơ, Nguyễn Xuân Sanh còn là một dịch giả vang danh với những thi phẩm đặc sắc của nhiều nhà thơ trên thế giới. Hãy đón xem và cảm nhận cùng uct.edu.vn nhé!

Em làm gì đó, em may gì đó?

Mit csinálsz, mit varrogatsz ott?
A ruhámat foltozgatod?
Rongyosan is jó az nékem,
Varrj inkább egy zászlót, feleségem!
Sejtek, sejtek én valamit,
A jóisten tudja, hogy mit,
De elég, hogy szól sejtésem,
Varrd meg azt a zászlót, feleségem!
Nem maradhat így sokáig,
Mi hogyan lesz, majd elválik,
Elválik a csatatéren,
Varrd meg azt a zászlót, feleségem!
Drága áru a szabadság,
Nem ingyen, de pénzen adják,
Drága pénzen, piros véren;
Varrd meg azt a zászlót, feleségem!
Ha ilyen szép kéz varrja meg,
A győzelem belészeret,
S mindig ott lesz közelében;
Varrd meg azt a zászlót, feleségem!

Dịch

Em làm gì đó, em may gì đó?
Anh biết rồi, em vá áo cho anh
Áo anh chưa rách lắm đâu, anh còn mặc được
Em yêu ơi, nên may cho anh một lá cờ
Lòng anh rộn ràng linh cảm
Cái gì đến? Có trời hay!
Tiếng ai gọi anh đây
May cho anh lá cờ đi, em hỡi!
Thời gian thay đổi
Chúng ta chờ gì ở tương lai?
Chiến trường sẽ quyết định, em ơi
Nhớ may cho anh một lá cờ
Tự do giá đắt
Muốn có tự do, phải tốn nhiều hơi sức
Tự do của chúng ta đổi trao bằng máu đổ
May cho anh lá cờ đi, hỡi em yêu
Bàn tay đẹp em may cờ
Chiến thắng sẽ mê say bàn tay đẹp
Chiến thắng sẽ theo lá cờ ta đi khắp
Em yêu, nhớ may cho anh một lá cờ

Gió buồn mùa thu nói với cây

Beszél a fákkal a bús őszi szél,
Halkan beszélget, nem hallhatni meg;
Vajon mit mond nekik? beszédire
A fák merengve rázzák fejöket.
Dél s est között van idő, nyujtózom
A pamlagon végig kényelmesen…
Keblemre hajtva fejecskéjét, alszik
Kis feleségem mélyen, csendesen.
Egyik kezemben édes szendergőm
Szelídeden hullámzó kebele,
Másik kezemben imakönyvem: a
Szabadságháborúk története!
Minden betűje üstököscsillagként
Nyargal keresztül magas lelkemen…
Keblemre hajtva fejecskéjét, alszik
Kis feleségem mélyen, csendesen.
Arany csal s ostor kerget tégedet
A zsarnokért megvíni, szolganép,
És a szabadság? egyet mosolyog,
S mind, aki híve, a harctérre lép,
S érette, mint a szép lyánytól virágot,
Sebet, halált oly jókedvvel veszen…
Keblemre hajtva fejecskéjét, alszik
Kis feleségem mélyen, csendesen.
Hány drága élet hullt már érted el,
Oh szent szabadság! és mi haszna van?
De lesz, ha nincs: tiéd a diadal
Majd a csatáknak utósóiban,
S halottaidért bosszut is fogsz állni,
S a bosszuállás rettentő leszen!…
Keblemre hajtva fejecskéjét, alszik
Kis feleségem mélyen, csendesen.
Vérpanoráma leng előttem el,
A jövendő kor jelenései,
Saját vérök tavába fúlnak bé
A szabadságnak ellenségei!…
Egy kis mennydörgés szívem dobogása,
S villámok futnak által fejemen,
S keblemre hajtva fejecskéjét, alszik
Kis feleségem mélyen, csendesen.

Dịch

Gió buồn mùa thu nói với cây
Tiếng nghe nhỏ quá có ai hay
Thì thầm bí mật điều chi đó?
Cây động trăm cành như mơ say
Bóng đêm nhè nhẹ bắt đầu xuống
Ngả lưng lên ghế lòng tôi vui
Vợ tôi ngả đầu lên vai tôi
Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng
Một tay tôi riết vợ vào lòng
Nàng vẫn say sưa trong giấc mộng
Một tay tôi cầm quyển sách kinh
Lịch sử các chiến tranh giải phóng
Tôi ham đọc quyển sách cao nhã
Máu hồng làm đập trái tim tôi
Vợ tôi ngả đầu lên vai tôi đằm thắm
Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng
Bị vàng cám dỗ bị roi dần
Bay lũ nô lệ đi đánh thuê
Nhưng dưới nụ cười thiêng liêng của tự do
Nghĩa quân vì tự do chiến đấu
Cho tự do họ hiến máu và cuộc đời
Như họ dâng hoa cho người yêu
Vợ tôi ngả đầu lên vai tôi đằm thắm
Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng
Để phục vụ ngươi bao trái tim thanh cao đã ngừng đập
Ôi tự do thần thánh! Kết quả gì cho bao hi sinh?
Đến nay chưa gì cả. Nhưng ngươi sẽ thắng
Khi chiến trận cuối cùng sẽ đến
Ngươi sẽ trả thù cho những người đã chết quang vinh
Và quyết liệt ngươi sẽ không tha thứ cho kẻ thù
Vợ tôi ngả đầu lên vai tôi đằm thắm
Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng
Mắt tôi dán vào một bức tranh hoe máu
Tôi chưa thấy rõ được tương lai
Kẻ thù của tự do chết đuối
Trong biển máu đen của chúng
Mỗi cái đập trái tim tôi là một tiếng sấm
Ánh chớp chói ngời xuyên qua hồn tôi
Trong khi đó vợ tôi ngả đầu vào vai tôi đằm thắm
Ngủ giấc ngủ êm lành ấm cúng

Gửi các nhà thơ thế kỷ XIX

Ne fogjon senki könnyelműen
A húrok pengetésihez!
Nagy munkát vállal az magára,
Ki most kezébe lantot vesz.
Ha nem tudsz mást, mint eldalolni
Saját fájdalmad s örömed:
Nincs rád szüksége a világnak,
S azért a szent fát félretedd.
Pusztában bujdosunk, mint hajdan
Népével Mózes bujdosott,
S követte, melyet isten külde
Vezérül, a lángoszlopot.
Ujabb időkben isten ilyen
Lángoszlopoknak rendelé
A költőket, hogy ők vezessék
A népet Kánaán felé.
Előre hát mind, aki költő,
A néppel tűzön-vízen át!
Átok reá, ki elhajítja
Kezéből a nép zászlaját.
Átok reá, ki gyávaságból
Vagy lomhaságból elmarad,
Hogy, míg a nép küzd, fárad, izzad,
Pihenjen ő árnyék alatt!
Vannak hamis próféták, akik
Azt hirdetik nagy gonoszan,
Hogy már megállhatunk, mert itten
Az ígéretnek földe van.
Hazugság, szemtelen hazugság,
Mit milliók cáfolnak meg,
Kik nap hevében, éhen-szomjan,
Kétségbeesve tengenek.
Ha majd a bőség kosarából
Mindenki egyaránt vehet,
Ha majd a jognak asztalánál
Mind egyaránt foglal helyet,
Ha majd a szellem napvilága
Ragyog minden ház ablakán:
Akkor mondhatjuk, hogy megálljunk,
Mert itt van már a Kánaán!
És addig? addig nincs megnyugvás,
Addig folyvást küszködni kell. –
Talán az élet, munkáinkért,
Nem fog fizetni semmivel,
De a halál majd szemeinket
Szelíd, lágy csókkal zárja be,
S virágkötéllel, selyempárnán
Bocsát le a föld mélyibe.

Dịch

Không còn ai nhẹ dạ
Khơi tiếng hát dây đàn
Ai ôm cây thất huyền
Có nhiệm vụ trang nghiêm
Nếu anh chỉ đến hát
Niềm vui, nỗi khổ riêng
Thì đời không chờ đợi
Hãy vứt cây đàn thiêng
Ta sống trong sa mạc
Ngày xưa có Môi-dơ
Dẫn đầu dân tiến bước
Thẳng hàng đuốc nhìn theo
Nay trời giao thi sĩ
Như đuốc sáng rực hồng
Nhiệm vụ đưa quần chúng
Về đất Sa-na-an
Cùng nhân dân, thi sĩ
Hãy bước qua bão lửa
Đáng nguyền rủa xấu xa
Ai để rơi quốc kỳ
Đáng rủa, ai đứng sau
Nghỉ ngơi trong bóng tối
Ai lười biếng nhát gan
Khi dân đau, chiến đấu
Chỉ là tiên tri giả
Ai ma mãnh nói rằng
Đã là nơi Đất Thánh
Ta hãy tạm dừng chân
Sự nói dối, nói lừa
Ngược hẳn đời vô vọng
Của triệu người cháy nắng
Mà đói khát dày vò
Khi đồng đều ta hưởng
Lẵng quả chín tràn đầy
Khi ngồi bàn công lý
Ta bình đẳng như nhau
Khi văn minh toả ánh
Vào tận mỗi nhà mình
Ta nói được: Dừng chân!
Đây chính là Đất Thánh
Ta chiến đấu quyết liệt
Đây đến đó không ngừng
Có thể ta cố gắng
Nhưng đời không thưởng công
Cái chết dịu dàng hôn
Ngọt ngào thay vuốt mắt
Cái chết đưa ta vào lòng trái đất
Trong hoa tang, trong vải liệm lụa là

Gửi nghị viện

Ott álltok a teremnek küszöbén,
Melyből a nemzet sorsa jön ki majd,
Megálljatok, ne lépjetek be még,
Hallgassátok ki intő szózatom…
Egy ember szól, de milliók nevében!
Az a hon, melyet őseink szereztek
Verítékökkel s szívök vérivel,
Az a hon többé nincs meg, csak neve
Bolyong közöttünk, mint a temetőbül
Éjféli órán visszajött kisértet…
Az a hon többé nincs meg, falait
Elmorzsolák a mult kor férgei,
S az uj vihar szétfújta födelét,
S lakói most az ég alatt tanyáznak,
Mint a vadállat és mint a madár.
Mit őseink egy ezredév előtt
Tevének, azt kell tenni most tinektek:
Bármily erővel, bármily áldozattal,
Bár mind egy szálig elvesztek belé,
Hazát kell nektek is teremteni!
Egy új hazát, mely szebb a réginél
És tartósabb is, kell alkotnotok,
Egy új hazát, ahol ne légyenek
Kiváltságok kevély nagy tornyai,
Sötét barlangok, denevértanyák,
Egy új hazát, hol minden szögletig
Eljusson a nap s tiszta levegő,
Hogy minden ember lásson s ép legyen.
Nem mondom én: a régi épületnek
Dobjátok félre mindenik kövét,
De nézzetek meg minden darabot, mit
Alapnak vesztek, s amely porhatag már,
Vessétek azt el kérlelhetlenül,
Bármily szent emlék van csatolva hozzá,
Mert jaj a háznak, mely alapba’ gyönge,
Mert fáradástok akkor hasztalan lesz,
Egy perc jöhet, s az épület ledől,
S rosz gazda, aki mindig ujra épit,
S ma vagy holnap, de végre tönkre jut.
Számot vetett-e mindenik magával,
Minő dologra szánta el magát?
Nagy a dicsőség, melyet mindegyik
Szerezhet itten, de tudjátok-e,
Csak nagy munkáért jár ez a dicsőség!
Akit nem égő honfiérzelem
És tiszta szándék vezetett ide,
Kit a hiúság, vagy silány önérdek
Csábít e helyre, az szentségtelen
Lábbal ne lépjen e szentelt küszöbre,
Mert hogyha egyszer átlép és kijő majd,
Átok s gyalázat lesz kisérete,
Mellyel haza s később a sírba megy. –
Ti, kik szivébül bálványistenek
Ki nem szoríták az igaz nagy istent,
Kiknek szivében a honszeretet
Mint szentegyházi oltárlámpa ég,
Eredjetek be és munkáljatok,
Legyen munkátok oly nagy, oly szerencsés,
Hogy bámultában, majd ha látni fogják,
Megálljon rajta a világ szeme,
A bennlakókat vallja boldogoknak
És istenítse, akik épitették!

Dịch

Ngài, ngài sẽ bước vào ngưỡng cửa phòng
Trong ấy quyết định tương lai Tổ quốc
Trước khi bước vào ngài chờ một phút
Lắng nghe tôi dò dặn những lời đây
Chỉ một người đến nói với ngài thôi
Nhưng chính triệu triệu con người lên tiếng
Tổ quốc mà cha ông ta xây dựng
Bằng giá cao của máu đổ, mồ hôi
Tổ quốc ta không còn có nữa rồi
Tổ quốc ta chỉ còn trong tên gọi
Giữa chúng ta tên đi lang thang mãi
Như con ma, như bóng tự nghĩa trang
Tổ quốc không còn. Mối bọ thời gian
Đã đục hết tường, và tường đã đỗ
Thời đại ngày nay có cơn bão tố
Đã lật mất nóc che chở quê hương
Người ở trong nhà không chỗ tựa nương
Họ chỉ lấy trời cao làm chăn đắp
Cũng như thú rừng hoang và chim lạc
Những gì tổ tiên làm tự nghìn xưa
Làm lại ngày nay chính việc các ngài
Phải công phu, phải dài năm cố gắng
Ngay phải đổi cuộc đời giành cái thắng
Nhiệm vụ các ngài xây dựng tương lai
Tổ quốc mới phải đẹp hơn cái cũ
Nó bất diệt, nó thử thách bao thế kỷ
Tổ quốc mới không cung điện kiêu căng
Không lều tối om những kẻ nghèo nàn
Một Tổ quốc mới khắp nơi được tưới
Ánh mặt trời và khí trời làm sống lại
Cho ai đều thấy thế giới đẹp này
Cho ai cũng đều khoẻ mạnh đều tươi
Tôi không bảo ngài một bên phải vứt
Tất cả đá của ngôi nhà thuở trước
Nhưng phải xem kỹ mọi góc nền nhà
Nếu chỗ đào rữa nát với thời gian
Thì nhất định vứt đi không thương tiếc
Dù đó có nhiều kỷ niệm tha thiết
Phải cẩn thận, nhà ọp ẹp dưới nền
Nếu không chú ý thì mất bao công
Chỉ một phút cũng đủ làm đổ tất
Xây nhà lại mãi là điều xấu thật
Vì chóng hay chầy cũng đến hoang tàn
Các ngài nắm được nhiệm vụ mình không?
Công sức ở nơi này quang vinh lắm
Nhưng phải biết quang vinh này chỉ nắm
Khi nhiệm vụ cao cả đã hoàn thành
Những ai đó khi đi đến nơi đây
Mà không chí bền giúp cho Tổ quốc
Không yêu nước, qua cửa thiêng chớ bước
Đừng nên bước vào đây, những kẻ đi
Với kiêu căng, với tính toán chi li
Vì khi ra, xấu xa và nguyền rủa
Sẽ theo chân cho đến ngày xuống mộ
Nhưng nếu với Chúa, ngài có lòng tin
Nếu lòng yêu nước, ngài giữ trong tim
Như lửa thiêng, xin mời vào, bước thẳng
Và xin mời ngài làm nhiệm vụ lớn
Mong các ngài được thắng lợi huy hoàng
Mong toàn cầu, việc cao cả chứng minh
Ghen tị với người ở trong nhà ấy
Và hoan nghênh các ngài đã xây nhà!

Gửi sự tự do

Oh szabadság, hadd nézzünk szemedbe!
Oly sokáig vártunk rád epedve,
Annyi éjen által, mint kisértet,
Bolygott lelkünk a világban érted.
Kerestünk mi égen-földön téged
Egyetlenegy igaz istenséget,
Te vagy örök, a többi mind bálvány,
Mely leroskad, egy ideig állván.
S mégis, mégis számkivetve voltál,
Mint a gyilkos Kain bujdokoltál,
Szent nevedet bitora szögezték,
Érkezésedet hóhérok lesték.
Megszünt végre hosszu bujdosásod,
Sírba esett, ki neked sírt ásott,
Bevezettünk, s uralkodás végett
Elfoglaltad a királyi széket.
Te vagy a mi törvényes királyunk,
Trónusodnál ünnepelve állunk,
Körülötted miljom s miljom fáklya,
Meggyúlt szíveink lobogó lángja.
Oh tekints ránk, fönséges szabadság!
Vess reánk egy éltető pillantást,
Hogy erőnk, mely fogy az örömláztól,
Szaporodjék szemed sugarától.
De, szabadság, mért halvány az orcád?
Szenvedésid emléke szállt hozzád?
Vagy nem tettünk még eleget érted?
Koronádat a jövőtől félted?
Ne félj semmit, megvédünk… csak egy szót,
Csak emeld föl, csak mozdítsd meg zászlód,
S lesz sereged ezer és ezernyi,
Kész meghalni vagy diadalt nyerni!
S ha elesnénk egy szálig mindnyájan,
Feljövünk a sírbul éjféltájban,
S győztes ellenségednek megint kell
Küzdeni… kisértő lelkeinkkel!

Dịch

Tự do, hãy nhìn mắt chúng tôi
Ta chờ anh từ lâu lắm rồi
Tâm hồn ta, bóng trong đêm tối
Để tìm anh, đi đã khắp nơi
Ta tìm ngươi dưới đất trên trời
Anh, Chúa đời đời, ta, độc nhất
Chỉ anh, vĩnh viễn. Các Chúa kia
Khi họ hết thời, sẽ đổ nát
Nhưng đâu người ta cũng đuổi anh
Anh đi lang thang như Cain
Tên anh thiêng liêng bị bêu xấu
Đao phủ quân đâu cũng đứng rình
Nhưng cuộc đày anh vừa mới hết
Kẻ thù rơi trong huyệt chúng đào
Ta đón anh về lòng hớn hở
Ta đưa anh lên ngự ngôi cao
Anh, vua độc nhất, ta biết ơn
Ta đứng quanh ngôi, buổi hội mừng
Vòng bên anh có bao ngọn đuốc
Lòng ta rực cháy đón chào anh
Tự do thiêng liêng, hãy nhìn chúng tôi
Bằng con mắt ban cho sự sống
Để làm trái tim lại thắm tươi
Trái tim mà vui say đã làm cháy bỏng
Nhưng, Tự do, mặt sao quá xanh?
Nhớ niềm đau cũ còn phiền anh?
Hay ta phục vụ anh chưa đủ?
Anh ngại sẽ mất mũ triều thiên?
Anh đừng run, ta bảo vệ anh
Anh chỉ giơ cao cờ đấu tranh
Quanh anh sẽ có triệu người lính
Sẵn sàng thắng hay chết vì anh
Và nếu chúng tôi đều bị giết
Đêm đêm sẽ ra khỏi nấm mồ
Và quân thù phải tiếp tục
Xung trận với hồn ta

Ngày 15 tháng ba năm 1848

Magyar történet múzsája,
Vésőd soká nyúgodott.
Vedd föl azt s örök tábládra
Vésd föl ezt a nagy napot!
Nagyapáink és apáink,
Míg egy század elhaladt,
Nem tevének annyit, mint mink
Huszonnégy óra alatt.
Csattogjatok, csattogjatok,
Gondolatink szárnyai,
Nem vagytok már többé rabok,
Szét szabad már szállani.
Szálljatok szét a hazában,
Melyet eddig láncotok
Égető karikájában
Kínosan sirattatok.
Szabad sajtó!… már ezentul
Nem féltelek, nemzetem,
Szívedben a vér megindul,
S éled a félholt tetem.
Ott áll majd a krónikákban
Neved, pesti ifjuság,
A hon a halálórában
Benned lelte orvosát.
Míg az országgyülés ott fenn,
Mint szokása régóta,
Csak beszélt nagy sikeretlen:
Itt megkondult az óra!
Tettre, ifjak, tettre végre,
Verjük le a lakatot,
Mit sajtónkra, e szentségre,
Istentelen kéz rakott.
És ha jő a zsoldos ellen,
Majd bevárjuk, mit teszen;
Inkább szurony a szivekben,
Mint bilincs a kezeken!
Föl a szabadság nevében,
Pestnek elszánt ifjai!…-
S lelkesülés szent dühében
Rohantunk hódítani.
És ki állott volna ellen?
Ezren és ezren valánk,
S minden arcon, minden szemben
Rettenetes volt a láng.
Egy kiáltás, egy mennydörgés
Volt az ezerek hangja,
Odatört a sajtóhoz és
Zárját lepattantotta.
Nem elég… most föl Budára,
Ott egy író fogva van,
Mert nemzetének javára
Célozott munkáiban.
S fölmenénk az ős Budába,
Fölrepültünk, mint sasok,
Terhünktől a vén hegy lába
Majdnem összeroskadott.
A rab írót oly örömmel
S diadallal hoztuk el,
Aminőt ez az öreg hely
Mátyás alatt ünnepelt! –
Magyar történet múzsája,
Vésd ezeket kövedre,
Az utóvilág tudtára
Ottan álljon örökre.
S te, szivem, ha hozzád férne,
Hogy kevély légy, lehetnél!
E hős ifjuság vezére
Voltam e nagy tetteknél.
Egy ilyen nap vezérsége,
S díjazva van az élet…
Napoleon dicsősége,
Teveled sem cserélek!

Dịch

Em Nàng Thơ lịch sử nước Hung
Mà lời văn ngủ đã lâu năm
Hãy chạm trổ ngày quang vinh đó
Trên tấm đá mãi mãi còn luôn
Cả ông ta và cả bố ta
Trong thời gian thế kỷ nặng nề
Đều không làm cái ta làm được
Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ
Cánh tung bay tâm trí của ta
Hãy vươn đi xa, vươn đi xa
Ngươi không bị tù trong ngục thất
Hãy toả mênh mông ra khắp nơi
Hãy đi khắp nơi trên đất nước
Mà ngươi đã khóc tự bao năm
Lúc ngươi còn bị đau ràng buộc
Trong kẹp lửa đỏ của xích xiềng
Báo chí đã tự do: từ đây
Nước ta ơi, không sợ cho ngươi nữa
Trong lòng ngươi chảy tràn máu thắm
Tấm thân chết, sống lại xinh tươi
Đúng, tên của thanh niên thành Pest
Sẽ được ghi vào trang sử sách
Quê hương ta đến phút cuối cùng
Thấy nơi các anh người cứu vớt
Trong khi toàn Nghị viện, trên kia
Trung thành với phong cách ngày xưa
Tiếp tục nói dài không bổ ích
Đây, giờ đã đánh cho chúng ta
Hành động, vững lòng, ôi tuổi trẻ
Chúng ta bẻ cho xong hết khoá
Mà bàn tay ác đã đặt lên
Trên vốn thiêng liêng, trên báo chí
Nếu kẻ thù đưa quân nó đến
Ta chờ xem quân nó làm gì?
Cho lưỡi lê thù đâm thủng ngực
Còn hơn mang xiềng xích trong tay
Vì tự do, chúng ta tiến bước
Thanh niên thành Pest, chúc anh hùng
Và chúng ta tấn công mãnh liệt
Trong niềm phấn khởi và hờn căm
Này những ai dám đứng đương đầu?
Tất cả chúng ta là triệu triệu
Trong nét mặt và trong mắt sâu
Một ánh lửa oai hùng rọi chiếu
Tiếng chúng ta thét lên hàng triệu
Như một cơn sấm, như đồng thanh
Chúng ta xô vào trong báo chí
Ổ khoá đà gãy vụn văng lên
Bây giờ đều ở cả Bu-đa
Một nhà văn đau đớn, đằng kia
Sâu trong tù ngục, vì đã nắm
Cây bút thiêng phục vụ nước nhà
Ta đã tiến công thành Bu-đa
Cũng nhanh chóng như chim ưng vậy
Cả phía sườn cao ngôi núi cổ
Cũng muốn sụp đổ dưới chân ta
Ta bế lên trong cuộc khải hoàn
Nhà văn nhốt ngục! Ôi vui thay
Ngôi núi cổ chưa hề thấy vậy
Từ những yến hội của Ma-chi-a
Hỡi Nàng Thơ lịch sử nước Hung
Ghi các việc lớn trên, lên đá
Làm bài học lâu đời, vô giá
Cho mắt sau này của cháu, con
Cho dù em đây có hãnh diện
Thì em ơi, cũng được chứ sao
Bởi vì anh, anh đã đứng đầu
Thanh niên đô thành ta anh dũng
Làm người dẫn đường như ngày nay
Đó mới thật đời anh được thưởng
So nhiều quang vinh trên thế giới
Thích nhất quang vinh của ta đây

Người dân Hung đã lại như ngày trước

Ismét magyar lett a magyar,
Mert ekkorig nem volt a,
Hogy is lett volna? szolga volt,
S nem magyar, aki szolga!
Ismét magyar lett a magyar,
Bilincsét összetörte,
Mint ősszel a száraz levél,
Csörögve hull a földre!
Ismét magyar lett a magyar,
Kardot ragad kezébe,
Kardján a napsugár ragyog
S a bátorság szemébe’!
Ismét magyar lett a magyar,
Lángol, piroslik arca,
Kitűzött zászló mindenik,
Amely jelt ád a harcra!
Ismét magyar lett a magyar,
Egy sziv miljók keblében,
És dobbanása rémület
Az ellenség fülében!
Ismét magyar lett a magyar,
A síkra állt vitézül,
És a világ, a nagyvilág
Csodákat látni készül!
Ismét magyar lett a magyar,
S világvégéig az lesz,
Vagy iszonyúan és dicsőn
Mind, mind egy szálig elvesz!

Dịch

Người dân Hung đã lại như ngày trước
Vì anh không còn như ngày trước đã từ lâu
Không còn như ngày trước, khi đã vào cảnh nô lệ thương đau
Người nô lệ không xứng danh người dân Hung nữa
Người dân Hung đã lại như ngày trước
Anh đã rũ hết xích xiềng
Như trong mùa thu lá úa vàng
Tan tác xích xiềng rơi xuống đất
Người dân Hung đã lại như ngày trước
Anh nắm chặt thanh kiếm cổ xưa
Thanh kiếm cổ xưa rạng ánh mặt trời
Và cặp mắt anh chói chang lòng can đảm
Người dân Hung đã lại như ngày trước
Khuôn mặt anh ngọn lửa sáng bừng
Mỗi khuôn mặt bừng lửa là một lá cờ tung
Kêu gọi toàn dân chiến đấu!
Người dân Hung đã lại như ngày trước
Một trái tim anh hùng trong mấy triệu người Hung
Mỗi tiếng đập trái tim anh hùng
Đều gây khủng khiếp trong hàng ngũ quân thù trước mặt
Người dân Hung đã lại như ngày trước
Can đảm như xưa anh bước vào tranh đấu
Các nhân dân trên khắp hoàn cầu
Chờ đợi những kỳ quan!
Người dân Hung đã lại như ngày trước
Dân Hung sẽ còn như trước cho đến ngày tận thế
Hoặc sẽ hy sinh cho đến người chiến sĩ cuối cùng
Chết cái chết đầy vinh dự, tuy thương đau!

Thời kinh khủng Szörnyű idő

Szörnyű idő, szörnyű idő!
S a szörnyüség mindegyre nő.
Talán az ég
Megesküvék,
Hogy a magyart kiirtja.
Minden tagunkból vérezünk,
Hogy is ne? villog ellenünk
A fél világnak kardja.
És ott elől a háború
Csak a kisebb baj; szomorúbb,
Mi hátul áll,
A döghalál.
Be kijutott a részed
Isten csapásiból, o hon,
Folyvást arat határidon
Két kézzel az enyészet.
Egy szálig elveszünk-e mi?
Vagy fog maradni valaki,
Leírni e
Vad fekete
Időket a világnak?
S ha lesz ember, ki megmarad,
El tudja e gyászdolgokat
Beszélni, mint valának?
S ha elbeszéli úgy, amint
Megértük ezeket mi mind:
Akad-e majd,
Ki ennyi bajt
Higgyen, hogy ez történet?
És e beszédet nem veszi
Egy őrült, rémülésteli,
Zavart ész meséjének?

Dịch

Thời kinh khủng! Thời kinh khủng!
Gớm ghê tăng mãi không ngừng
Có lẽ trời kia
Định giết cả người Hung
Cả thân hình chúng tôi chảy máu
Vì sao? một nửa nhân loại
Cầm gươm súng giết chúng tôi
Trước mặt chúng tôi là chiến tranh
Tệ hơn nữa, sau lưng lại đến
Bao nhiêu thứ bệnh
Tổ quốc ơi! Người nhận phần
Nguyền rủa của trời
Cái chết hai tay đang hái
Không hề ngừng
Trên biên giới nhà ngươi
Chúng ta chết hết
Không còn người nào
Để ghi trong sử
Của những ngày đầy tội ác đêm sâu?
Anh ta còn biết tìm ra manh mối
Của giai đoạn gớm ghê này không?
Nghe chuyện thật
Những ngày ta sống
Có ai tin
Bao nhiêu đau khổ đến với ta như thế?
Có ai nghe
Như những giấc chiêm bao vô lí
Từ đầu óc người điên?

Thư gửi nhà thơ bạn Giăng A-ra-ny

Meghaltál-e? vagy a kezedet görcs bántja, imádott
Jankóm, vagy feledéd végkép, hogy létezem én is?
Vagy mi az ördög lelt?… híred sem hallja az ember.
Hogyha magába fogadt az öröklét bölcseje, a sír:
Akkor béke veled, legyenek szép álmaid ott lenn,
Feddo kérdésem nem fogja zavarni nyugalmad,
Hogy mi okért hallgatsz? mért késel szólni levélben?
Hogyha pedig görcs bánt, menj a patikába, s iparkodj
Meggyógyulni, fiam, s aztán írj rögtön, azonnal.
S ha feledél engem? ha barátod volna feledve?
Dejsz ugy, öcsém, vessz meg, kívánom tiszta szivembül.
Te mikoron nevedet keblem mélyébe leírtad,
Mit tettél, tudod azt? gránitsziklába acéllal
Vágtál életen át múlás nélkuli betuket;
Hát én? én nevemet karcoltam volna homokba,
Melyet, névvel együtt, egy hó szelloje is elfúj?
Megköszönöm, ha netán így van… no de elhiszem inkább,
Hogy rosz verseim is vannak, mint hogy te feledtél.
Lomha vagy, itt a bibéd; restelsz, mit jó magam, írni.
Kérlek, hagyd nekem a restséget, légy te serényebb,
Lásd, nekem úgy illik, (s oly jólesik!) úgye lemondasz
Róla, ha én kérlek! – Hah, máris látlak ugorni,
Mint ragadod nyakon a tollat, mint vágod az orrát
A tintába, miként huzod a sok hosszu barázdát
A papiron, ringy-rongy eszméket vetve beléjök…
Mert ne is írj inkább, hogysem bölcs gondolatokkal
Terheld meg leveled s gyomrom, mert semmi bolondabb
Nincsen, mint az okos levelek, s én iszonyuképen
Irtózom tolök; tán mert én nem tudok olyat
Kompónálni, azért. Ez meglehet. Ámde hogy úgy van,
Esküszöm erre neked túróstésztára, dohányra
És mindenfélére, mi csak szent s kedves elottem. –
Drága komámasszony, kegyedet kérem meg alássan,
Üsse agyon férjét és szidja meg istenesen, ha
Még ezután sem fog nekem írni az illyen-amollyan.
Írjon mindenrol hosszan, de kivált, ha kegyedrol
Ír röviden, haragunni fogok majd hosszu haraggal.
El ne feledje a barna Lacit s a szoke Julist, e
Kedves gyermekeket. Hát a kert hogy van, amelynek
Rózsáin szemeim sokszor függének, amíg a
Messzeröpult lélek hívemhez vitte szerelmét?
És a csonka torony, mely a harcoknak utána
Most szomorún hallgat gyér fu-koszorúzta fejével,
S várja jövendojét, mely lábát ráteszi, s akkor
Összeomol, mint a koldús, ha kikapja kezébol
A mankót a halál… áll még a gólya fölötte,
Méla merengéssel nézvén a messze vidékbe?
Mindenrol akarok, mi nekem kedves vala, tudni.
Jártam azóta dicso szép tájakon, ámde tiétek
Mindig eszemben volt, bár nincs mit rajta csodálni;
A veletek töltött kor tette szivembe örökké.
S jártam azóta magas fényes paloták körül, ahol
Minden, minden nagy; gazdáik lelke kicsiny csak…
Akkor eszembe jutott alacsony hajlékotok, ebben
Mind kicsinyecske, de a gazdának lelke nagy és szép! –
Ejnye, mi a fene lelt engem, hogy szembe dicsérek?
Most veszem észre, hohó! mind, amit mondtam, hazugság,
Csúnya hazugság volt. Le akartam csak kenyerezni
A nótáros urat, hogy… hogy… majd beszerezzen
Bakternek vagy kondásnak falujába, ha e szép
Hívatalok valamelyike meg fog ürulni idovel.
Hja, nekem is hozzá kell látnom végre, barátom.
Házasodom, tudod azt, s tudod azt is, hogy jövedelmet
Dús uradalmam nem hullat zsebeimbe, mióta
Századik édesapám eladá vagy meg se’ szerezte.
S így az eléléshez nincsen mód, nincs! hivatal kell.
Meghajtom fejemet, szépen mosolyogni tanúlok,
Nyájas szófogadás, kígyó-csúszásu hizelgés
Lesz kenyerem (s zsíros kenyerem)… hah, lesz a kutyának,
Nem pedig énnékem! pusztán a gondolat is már
Lángfelhoket idéz véres szemeimnek elébe,
És szívem tombol, mint a harmadfü csikó, ha
A pányvás kötelet legeloször dobja nyakába
A pásztor, hogy a ménesbol kocsirúdho’ vezesse.
Nem a tehertol fél, amelyet húznia kell majd,
Nem! hanem a hámtól, mely korlátozza futását.
És amit így elveszt, azt nem pótolja sem abrak,
Sem pedig a ragyogó szerszám. Mit néki az étel
S a hiu fény! megelégszik o a pusztai gyeppel,
Bármi sovány, s a záporesok szabad égnek alatta
Verhetik oldalait s a bozót hadd tépje sörényét,
Csak szabadon járjon, csak kergethesse tüzében
A sivatag viharát s a villám sárga kigyóit – –
Isten hozzátok! lelkem múlatni szeretne
Még veletek, kedves hiveim, de az elragadó szél
Képzeletem százrétü vitorlájába beléfújt,
Szétszakad a horgony, fut gályám, elmarad a part,
S ringat habkarján a látkör nélküli tenger,
És mig az orkán zúg, s a felhok dörgenek, én a
Lant idegébe kapok, s vad tuzzel zengi el ajkam
Harsány himnuszodat, százszorszent égi szabadság!

Dịch

Mày chết rồi ư? Mày cóng tay sao
Giăng thân yêu, hay mày đã quên tao?
Gì đã xảy ra? Mày không tin tức
Nếu mày yên nghỉ nghìn năm – ngôi mộ
Thì nghỉ cho yên. Chúc mày có mộng đẹp bên kia
Tao thắc mắc vì mày lặng không thư
Chắc nó không phá của mày giấc ngủ
Nếu mày cóng tay, nhớ đi mua thuốc
Uống cho lành. Rồi nhớ viết thư nhanh
Nếu mày quên tao, quên thằng bạn thân
Thì trời đày mày, rủa mày đấy nhé!
Khi trong lòng tao tên mày viết rõ
Mày đã khắc trên tảng đá hoa cương
Bằng mũi thép dấu hiệu vẫn còn luôn
Còn tao? Đã ghi tên tao trên cát
Gió biển thổi đi, tên đà mờ nhạt
Nếu thật vậy, thì cám ơn, cám ơn
Tao thích viết câu thơ dở còn hơn
Là thấy mày đã quên tao như thế
Bệnh mày, là lười! Viết thư thì ngại
Tao cũng vậy. Đừng ngại nữa, van mày
Với tao, với mày, thu xếp dễ thôi
Nhưng ôi, nếu mày từ chối
Tao thấy rồi. Trên bút lông mày nhảy
Mày lấy mực chấm đầu ngòi bút lông
Trên trang giấy trắng mày viết trăm dòng
Để gieo lên đó những đầu ý nghĩ
Nhưng tốt hơn hết mày đừng viết nữa
Nếu thư mày nặng tư tưởng sâu xa
Không gì điên hơn một thư lý sự
Tao ghê nó và nó làm tao sợ
Có lẽ đọc nó tao không hiểu tao
Vì thế đó. Nhưng mày nói tao nghe
Về một bánh mỳ bôi pho-mát trắng
Về thuốc lá, về gì tao yêu mến
Bây giờ thưa chị, tôi nói chuyện thân
Với chị. Chị hãy mắng anh Giăng
Nếu anh lần khân không thư cho bạn
Anh phải viết dài, nói cho đủ chuyện
Nhất về chị, nếu anh ngắn ngủi đưa tin
Thì tôi sẽ sâu sắc giận anh
Mong anh không quên La-xi tóc hung, tóc vàng Giu-li-ét
Các cháu yêu. Ra sao rồi, vườn tược?
Các hoa hồng tôi hay ngắm ngày xưa
Khi tôi nhớ một người yêu ở xa?
Và cái tháp điêu tàn từ thuở trước
Mái nó chắc vẫn xum xuê cỏ dại
Tháp chờ chăng, tương lai đến đạp nó dưới chân
Nó đứng hệt như một kẻ ăn xin
Chờ cái chết đến cất giùm nạng chống
Xa kia, con sếu vẫn trên tháp đứng
Mắt mơ mộng vẫn nhìn khắp xung quanh?
Tôi chờ tin về những cái mến thân
Từ ấy tôi đi những nơi kỳ diệu
Nhưng yêu quê bạn, đơn sơ kín đáo
Ở gần anh chị nó sẽ đẹp thêm
Nhiều cung điện nguy nga tôi đã thăm
Vĩ đại cả, chỉ trừ lòng bọn chủ
Mỗi lần tôi lại nhớ nhà anh chị
Bé cả, trừ tâm hồn chủ thanh cao
Ối chào! Tôi lại nịnh hót rồi sao
Kể thật ra, đều là trò nó
i dối
Để bắt buộc viên công chứng một tí
Để bắt buộc hắn tìm cho tôi việc tốt trong làng
Gì cũng được, người chăn lợn hay lính tuần phiên
Miễn hai việc đều làm tôi được rảnh
Giăng, tao phải nghĩ đến đó nghiêm chỉnh
Mày biết, tao vợ rồi, mày cũng hay
Rằng đất tao hoa lợi chẳng có gì
Ngày ông tổ thứ ba mươi đã bán
Hay đúng hơn, là đã quên tậu ruộng
Giờ làm sao sống? Phải có việc làm
Cúi đầu vậy, học nết ở nết ăn
Vâng lời, nịnh nọt, thâm khôn rắn độc
Tao sẽ có bánh, bánh mì bơ… Được
Đó là cho chó chứ đâu cho tao
Nghĩ vậy, mắt tao bốc máu lửa và mây mù
Lòng điên lên như con ngựa tơ hai tuổi
Khi người chăn muốn vứt xung quanh cổ
Lần đầu tiên, một sợi dây thừng tròng
Kéo nó khỏi đàn, đẩy nó vào gọng xe
Không phải nó sợ cái gì đè nặng
Không! Nhưng bộ đồ ngựa ngăn bước nó
Và cái nó mất, không phải cỏ khô
Hay bộ đồ ngựa chói lọi ấy đâu!
Nghĩa lý gì cái ăn và cái bóng nhoáng?
Nó sẽ bằng lòng cỏ ở Pút-ta
Dù cằn cỗi, và mưa rào sườn núi
Và bụi gai có thể rứt lông bờm
Miễn nó được tự do chạy tung tăng
Nó chạy còn nhanh hơn cơn gió bão
Nó chạy còn nhanh hơn chớp vàng loé
Mong anh chị được trời phù hộ. Tôi ưa
Còn được ở gần anh chị. Ngọn gió đưa
Thổi buồm tôi trong lang thang mơ mộng
Bãi bờ đã xa. Mênh mông mặt biển
Trên cánh tay bọt nước trắng đẩy tôi
Đã cất neo rồi. Trên khơi rộng buồm trôi
Khi bão gầm vang, khi trời sấm sét
Tôi nảy một dây đàn… Ôi tự do thân thiết
Tôi cất tiếng hát hăm hở chào ngươi!

Tôi tin chắc lần này chúng tôi sẽ thắng

Bizony mondom, hogy győz most a magyar,
Habár ég s föld ellenkezőt akar!
Azért nem győzött eddig is e hon,
Mert sohasem volt egy akaraton;
Most egy a lélek, egy a szív, a kar…
Mikor győznél, ha most sem, oh magyar?
Egy ember a haza, s ez halni kész,
S ezért, oh népem, ép ezért megélsz,
S dicső lesz élted, boldog és szabad,
Amilyen senkié a nap alatt!
S én bátran állom a csaták tüzét,
Tudom, hogy a golyó nekem nem vét,
Tudom, hogy a sors őriz engemet,
Hogy engemet megölni nem lehet,
Mert én leszek, nekem kell lenni, ki
Ha elleninket mind a föld fedi,
Megéneklem majd diadalmadat,
Szabadság, és a szent halottakat,
Akiknek vére volt kereszvized,
S halálhörgése bölcsőéneked;
Meg kell, hogy érjem azt a szép napot,
Midőn áldásodat reánk adod,
S mi annyi átokteljes év után
Sirunk, mosolygunk, az öröm mián,
Midőn, mit eltört láncunk ád, a nesz
Egy szabad nemzet imádsága lesz!
Meg kell, hogy érjem azt a nagy napot,
Amelyért lantom s kardom fáradott!

Bản Dịch

Tôi tin chắc lần này chúng tôi sẽ thắng
Trong trận chiến đấu với lực lượng liên kết của đất của trời
Cho đến nay chính nghĩa của nước nhà chưa thắng
Vì đàn con luôn luôn còn bị rẽ chia
Nhưng, nay Tổ quốc đã đoàn kết mọi tấm lòng, mọi cánh tay
Biết bao giờ anh sẽ thắng, nếu bây giờ anh chưa chịu thắng?
Cả dân tộc ta đứng dậy như một con người
Nên ngươi sẽ sống, Tổ quốc ta ơi!
Người Hung sẽ tự do, sẽ hạnh phúc
Như chưa hề có dân tộc nào trên trái đất!
Tôi nhảy vào các cuộc chiến tranh
Tôi thấy đạn bay không bắn được thân mình
Vận mệnh chở che tôi, tôi biết
Lần này tôi tránh được cái chết
Vì tôi phải sống để chờ ngày
Quân thù dưới đất bị chôn vùi
Để hát mừng ngươi, ôi Tự do yêu quý
Để hát mừng quang vinh của các anh hùng
Đã hy sinh – máu họ đổ sẽ là nước thánh
Và tiếng hát ru ngươi là hơi thở cuối cùng!
Tôi phải sống cho đến ngày
Tự do sẽ ban phúc cho ta
Khi sau bao nỗi đau không tả được
Niềm vui tự do sẽ trút xuống niềm vui
Khi bài ca nước nhà giải phóng
Sẽ chan hoà với tiếng đứt xích xiềng!
Tôi phải sống để nhìn thấy sự thành công của chính nghĩa
Của chính nghĩa mà tôi đã hiến dâng chiếc đàn thơ và thanh kiếm!

Tuổi trẻ tháng ba (trích)

Szolgaságunk idejében
Minden ember csak beszélt,
Mi valánk a legelsők, kik
Tenni mertünk a honért!
Mi emeltük föl először
A cselekvés zászlaját,
Mi riasztók föl zajunkkal
Nagy álmából a hazát!
A földet, mely koporsó volt
S benn egy nemzet a halott,
Megillettük, és tizennégy
Milljom szív földobogott.
Egy szóvá s egy érzelemmé
Olvadt össze a haza,
Az érzelem “lelkesűlés”,
A szó “szabadság” vala.
Oh ez ritkaszép látvány volt,
S majd ha vénül a világ,
Elmondják az unokáknak
Ezt a kort a nagyapák.
És mi becsben, hírben álltunk,
Míg tartott a küzdelem,
De becsünknek, de hirünknek
Vége lett nagy hirtelen.
Kik nem voltak a csatán, a
Diadalhoz jöttenek,
S elszedék a koszorúkat,
Mert a szóhoz értenek.
E sereg, mely, míg a harc folyt,
El volt bujva vagy aludt,
Igy zugott a diadalnál:
Mi viseltünk háborut!

Dịch

Ngày chúng ta còn nô lệ
Người ta chỉ nghe những câu nói viển vông
Chúng ta là những kẻ đầu tiên
Dám làm một cái gì khác cho Tổ quốc
Chúng ta là những kẻ đầu tiên
Phất cao cờ hành động
Những tiếng chúng ta kêu báo động
Đã thức tỉnh quê hương
Tiếng thét lửa chúng ta lung lay trái đất
Chiếc quan tài lớn dành cho quê hương ta sắp chết
Và mười bốn triệu trái tim
Bỗng trở về cuộc sống
Chỉ một tiếng kêu, một tình cảm thống nhất
Đúc thành một khối cả dân tộc chúng ta
Lửa của lòng yêu đất nước
Tiếng gọi nồng thắm của tự do
Đó là một cảnh không thể nào quên được
Những thời đại sắp đến đây
Khi người Hung-ga-ri còn ở trên đời
Các ông cụ già sẽ kể chuyện cho con cháu
Trong những ngày ác liệt chiến đấu
Chúng ta đều có và danh dự và kính yêu
Nhưng một ngày kia
Danh dự và kính yêu có thể mất
Những ai đứng xa cuộc chiến đấu ác liệt
Ngày thắng trận sẽ lạ về
Họ sẽ đội mũ triều thiên của chúng ta
Vì họ thông đồng với kẻ có những lời nói dối
Trong trận chiến đấu cuối cùng
Những ai nằm ngủ những ai lẩn tránh
Sẽ lớn tiếng
Đòi phần thưởng của chiến thắng

Nguyễn Xuân Sanh là một nhà thơ xuất sắc của đất nước ta. Qua bài viết này chúng ta thêm phần cảm phục và ngưỡng mộ sự đa tài của ông. Những tác phẩm của ông luôn được bạn đọc chào đón và săn lùng. Cảm ơn quý độc giả đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm : Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh cùng chùm thơ dịch của Petőfi Sándor phần 3