Nhà thơ Nam Trân và trọn bộ những bài thơ dịch đặc sắc nhất phần 3

Những tác phẩm dịch của nhà thơ Nam Trân luôn được bạn đọc yêu mến và ca ngợi bởi sự tài năng thiên phú của ông. Qua chùm thơ chúng ta thêm ngưỡng mộ ông bởi chỉ những người hiểu biết về ngôn ngữ mới có thể làm được như vậy. Không để các bạn chờ lâu hơn nữa, mời các bạn đón xem ngay bây giờ!

Xuân hiểu 春曉 • Buổi sáng mùa xuân

春眠不覺曉,
處處聞啼鳥。
夜來風雨聲,
花落知多少?

Xuân hiểu

Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu?

Dịch nghĩa

Say sưa giấc xuân không biết trời đã sáng
Khắp nơi vang lên tiếng chim hót
Đêm qua có tiếng gió và mưa
Hoa rụng không biết bao nhiêu?

Dịch

Giấc xuân, sáng chẳng biết,
Khắp nơi chim ríu rít.
Đêm nghe tiếng gió mưa,
Hoa rụng nhiều hay ít?

Tầm hưởng 尋響 • Tìm tiếng vọng

松風水月明,
無影亦無形。
色身這個是,
空空尋響聲。

Tầm hưởng

Tùng phong thuỷ nguyệt minh,
Vô ảnh diệc vô hình.
Sắc thân giá cá thị,
Không không tầm hưởng thanh.

Dịch nghĩa

Gió giật cành thông, trăng sáng dưới nước,
Không có bóng, cũng không có hình.
Sắc thân cũng như thế,
(Muốn tìm nó như) tìm tiếng vang trong hư không.

Dịch

Gió cành thông, lòng sông trăng sáng,
Bóng cũng không, hình dáng cũng không.
Sắc thân, thân sắc đều không,
Như tìm tiếng dội trong vòng hư vô.

Hoành Khê Đường xuân hiểu 橫溪堂春曉

一把青秧趁手青,
輕煙漠漠雨冥冥。
東風染盡三千頃,
白鷺飛來無處停。

Hoành Khê Đường xuân hiểu

Nhất bả thanh ương sấn thủ thanh,
Khinh yên mạc mạc vũ minh minh.
Đông phong nhiễm tận tam thiên khoảnh,
Bạch lộ phi lai vô xứ đình.

Dịch

Mạ cấy vừa xong, bén rễ mau,
Mưa bay mờ mịt, khói phô màu.
Gió xuân nhuộm biếc ba nghìn khoảnh,
Cò trắng bay về biết đỗ đâu.

Hệ nhạc phủ kỳ 6 – Bần phụ từ 系樂府其六-貧婦詞

誰知苦貧夫,
家有愁怨妻。
請君聽其詞,
能不為酸淒。
所憐抱中兒,
不如山下麑。
空念庭前地,
化為人吏蹊。
出門望山澤,
回頭心復迷。
何時見府主,
長跪向之啼。

Hệ nhạc phủ kỳ 6 – Bần phụ từ

Thuỳ tri khổ bần phu,
Gia hữu sầu oán thê.
Thỉnh quân thính kỳ từ,
Năng bất vị toan tê.
Sở liên bão trung nhi,
Bất như sơn hạ nghê.
Không niệm đình tiền địa,
Hoá vi nhân lại khê.
Xuất môn vọng sơn trạch,
Hồi đầu tâm phục mê.
Hà thời kiến phủ chủ,
Trường quỵ hướng chi đề.

Dịch

Khổ người nghèo, ai biết ?
Vợ nhà sầu oán luôn.
Ngài hãy nghe chị nói,
Lòng sẽ thấy đau buồn:
“Ôi! đứa bé ẵm ngửa,
Không bằng chú nai con.
Miếng đất vườn nhà ở,
Bọn lại giẫm đến mòn.
Ra cổng trông đầm núi,
Ngoảnh mặt như mất hồn.
Bao giờ gặp quan phủ,
Quỳ xuống kể nguồn cơn!”

Mãn giang hồng 滿江紅

怒發衝冠,
憑欄處、
瀟瀟雨歇。
抬望眼、
仰天長嘯,
壯懷激烈。
三十功名塵與土,
八千里路雲和月。
莫等閑、白了少年頭,
空悲切。
靖康恥,
猶未雪。
臣子恨,
何時滅!
駕長車,
踏破賀蘭山缺。
壯志飢餐胡虜肉,
笑談渴飲匈奴血。
待從頭、收拾舊山河,
朝天闕。

Mãn giang hồng

Nộ phát xung quan,
Bằng lan xứ,
Tiêu tiêu vũ yết.
Đài vọng nhãn,
Ngưỡng thiên trường khiếu,
Tráng hoài khích liệt.
Tam thập công danh trần dữ thổ,
Bát thiên lý lộ vân hoà nguyệt.
Mạc đẳng nhàn, bạch liễu thiếu niên đầu,
Không bi thiết.
Tĩnh Khang sỉ,
Do vị tuyết.
Thần tử hận,
Hà thời diệt!
Giá trường xa,
Đạp phá Hạ Lan sơn khuyết.
Tráng chí cơ xan Hồ lỗ nhục,
Tiếu đàm khát ẩm Hung Nô huyết.
Đãi tòng đầu, thu thập cựu sơn hà,
Triều thiên khuyết.

Dịch

Tóc dựng mái đầu,
Lan can đứng tựa,
Trận mưa vừa dứt.
Ngóng trời xa,
Uất hận kêu dài.
Hùng tâm khích liệt,
Ba mươi tuổi cát bụi công danh,
Tám ngàn dặm dầm sương dãi nguyệt.
Chớ lỏng lơi nữa kẻo bạc đầu,
Ích gì rên xiết.
Mối nhục Tĩnh Khang,
Chưa gội hết.
Hận thù này,
Bao giờ mới diệt.
Cưỡi cỗ binh xa,
Dẫm Hạ Lan nát bét.
Đói, vùng lên ăn thịt giặc Hồ,
Khát, cười chém Hung Nô uống huyết.
Rồi đây dành lại cả giang san,
Về chầu cửa khuyết.

Phùng nhập kinh sứ 逢入京使

故園東望路漫漫,
雙袖龍鐘淚不乾。
馬上相逢無紙筆,
憑君傳語報平安。

Phùng nhập kinh sứ

Cố viên đông vọng lộ man man,
Song tụ long chung lệ bất can.
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
Bằng quân truyền ngữ báo bình an.

Dịch nghĩa

Ngóng về hướng đông nơi quê nhà, đường dài hun hút,
Hai tay áo đầm đìa nước mắt không khô.
Ở trên lưng ngựa gặp nhau, không có sẵn giấy bút,
Nhờ anh gửi lời nhắn tin báo rằng tôi vẫn được bình yên.

Dịch

Quê nhà xa tít ngoái trông sang,
Áo thõng hai tay lệ chảy dàn.
Trên ngựa gặp nhau không giấy bút,
Nhờ anh nhắn hộ tớ bình an.

Tẩu Mã xuyên hành, phụng tống Phong đại phu tây chinh

君不見
走馬川行雪海邊,
平沙莽莽黃入天。
輪台九月風夜吼,
一川碎石大如鬥,
隨風滿地石亂走。
匈奴草黃馬正肥,
金山西見煙塵飛,
漢家大將西出師。
將軍金甲夜不脫,
半夜軍行戈相撥,
風頭如刀面如割。
馬毛帶雪汗氣蒸,
五花連錢旋作冰,
幕中草檄硯水凝。
虜騎聞之應膽懾,
料知短兵不敢接,
車師西門佇獻捷。

Tẩu Mã xuyên hành, phụng tống Phong đại phu tây chinh

Quân bất kiến:
Tẩu Mã xuyên hành tuyết hải biên,
Bình sa mãng mãng hoàng nhập thiên.
Luân Đài cửu nguyệt phong dạ hống,
Nhất xuyên toái thạch đại như đấu,
Tuỳ phong mãn địa thạch loạn tẩu.
Hung Nô thảo hoàng mã chính phì,
Kim Sơn tây kiến yên trần phi,
Hán gia đại tướng tây xuất sư.
Tướng quân kim giáp dạ bất thoát,
Bán dạ quân hành qua tương bát,
Phong đầu như đao diện như cát.
Mã mao đới tuyết hãn khí chưng,
Ngũ hoa liên tiền tuyền tác băng,
Mạc trung thảo hịch nghiễn thuỷ ngưng.
Lỗ kỵ văn chi ưng đảm nhiếp,
Liệu tri đoản binh bất cảm tiếp,
Xa Sư tây môn trữ hiến tiệp.

Dịch nghĩa

Bạn thấy không:
Sông Tẩu Mã chảy bên biển tuyết
Cát phẳng mênh mông vàng tới chân trời
Ở Luân Đài tháng 9 gió hú suốt đêm
Trong dòng sông, đá bể ra to như những cái đấu
Theo luồng gió đá nằm la liệt khắp nơi
Hung Nô cỏ vàng ngựa no béo
Từ Kim Sơn nhìn phía tây thấy bụi khói bay
Tướng Hán đem quân về phía tây
Mặc áo giáp suốt đêm không cởi
Hành quân ban đêm gươm đao va chạm nhau
Gió thổi như dao, mặt như bị cắt ra
Lông ngựa đầy tuyết mồ hôi bốc lên
Ngựa ngũ hoa đốm đồng tiền như bị đóng băng
Viết hịch trong trướng nước đông lại trong bình mực
Quân kỵ của Hồ Lỗ nghe vậy đã sợ khiếp
Liệu biết quân mình là đoản binh không dám tiếp đánh
Ở cửa tây thành Xa Sư chờ tin thắng trận báo về.

Dịch

Người thấy chăng:
Tẩu Mã Xuyên biển tuyết ngời,
Cát vàng bát ngát tận chân trời?
Luân Đài tháng chín gió đêm rú,
Lòng sông, đá vụn to như đấu,
Gió đẩy chạy bừa khắp trong xứ.
Hung Nô cỏ vàng ngựa béo quay,
Kim Sơn khói bụi ngút miền tây,
Hán triều đại tướng xuất binh ngay.
Thâu đêm tướng quân mặc áo sắt,
Loảng xoảng giáo gươm đi khuya khoắt,
Ngọn gió như dao thổi rách mặt.
Tuyết đầm mình ngựa hơi bốc lên,
Ngựa hoa băng đóng cộm cương yên,
Trong doanh viết hịch váng đầy nghiên.
Địch quân vừa nghe đã khủng khiếp,
Tự biết sức hèn không đánh tiếp,
Cửa tây ta chờ tin báo tiệp.

Bộ ngư dao 捕漁謠

天子好征戰,
百姓不種桑。
天子好年少,
無人薦馮唐。
天子好美女,
夫婦不成雙。

Bộ ngư dao

Thiên tử hiếu chinh chiến,
Bách tính bất chủng tang.
Thiên tử hiếu niên thiếu,
Vô nhân tiến Phùng Đường.
Thiên tử hiếu mĩ nữ,
Phu phụ bất thành song.

Dịch nghĩa

Nhà vua thích chinh chiến,
Trăm họ không trồng dâu.
Nhà vua thích tuổi trẻ,
Chẳng ai tiến cử Phùng Đường.
Nhà vua thích gái đẹp,
Vợ chồng không thành lứa đôi.

Mô ngư nhi 摸魚兒

更能消幾番風雨,
匆匆春又歸去。
惜春長怕花開早,
何況落紅無數。
春且住,
見說道,
天涯芳草無歸路。
怨春不語。
算只有殷勤,
畫檐蛛網,
盡日惹飛絮。
長門事,
準擬佳期又誤。
蛾眉曾有人妒。
千金縱買相如賦,
脈脈此情誰訴?
君莫舞,
君不見,
玉環飛燕皆塵土。
閑愁最苦。
休去倚危欄,
斜陽正在,
煙柳斷腸處。

Mô ngư nhi

Cánh năng tiêu kỷ phiêu phong vũ,
Thông thông xuân hựu quy khứ.
Tích xuân trường phạ hoa khai tảo,
Hà huống lạc hồng vô số,
Xuân thả trú,
Kiến thuyết đạo,
Thiên nhai phương thảo vô quy lộ.
Oán xuân bất ngữ.
Toán chỉ hữu ân cần,
Hoạ thiềm tru võng,
Tận nhật nhạ phi nhứ.
Trường Môn sự,
Chuẩn nghĩ giai kỳ hựu ngộ.
Nga mi tằng hữu nhân đố.
Thiên kim túng mãi Tương Như phú,
Mạch mạch thử tình thuỳ tố ?
Quân mạc vũ,
Quân bất kiến,
Ngọc Hoàn, Phi Yến giai trần thổ.
Nhàn sầu tối khổ,
Hưu khứ ỷ nguy lan,
Tà dương chính tại,
Yên liễu đoạn trường xứ.

Dịch nghĩa

Còn qua được mấy phen mưa gió
Xuân vội vã lại đi,
Tiếc xuân đi nên cứ sợ hoa nở sớm.
Huống chi cánh hồng lại rơi rụng không biết bao nhiêu mà kể.
Xuân hãy ở lại,
Nghe nói,
Đám cỏ thơm ngoài chân trời chắn mất lối về.
Oán xuân không nói một lời.
Có chăng chỉ con nhện chăm chỉ,
Chăng tơ bên thềm hoa,
Suốt ngày như tơ liễu bay.
Câu truyện Trường Môn xưa,
Làm lỡ hẹn đẹp.
Gái mày ngài có người ghen.
Nghìn vàng dù có mua được bài phú của Tương Như,
Đằng đẵng mối tình này biết ngỏ cùng ai ?
Chớ có múa may,
Chẳng thấy sao,
Ngọc Hoàn, Phi Yến đều hoá thành đất bụi.
Không gì khổ bằng nỗi buồn suông tẻ.
Chớ có ra đứng tựa lan can trên lầu cao,
Giữa lúc mặt trời xế bóng,
Cây liễu khói mờ, là nơi buồn đau đứt ruột.

Dịch

Còn qua được bao phen mưa gió,
Thoăn thoắt xuân chừng cuốn vó.
Tiếc xuân những sợ sớm mùa hoa,
Huống nữa rụng bao cánh đỏ.
Xuân hãy ở,
Nghe nói,
Tận chân trời, đường về vướng cỏ.
Giận xuân không thổ lộ.
Nghĩ chỉ riêng lưới nhện,
Dệt bên thềm,
Suốt ngày vương bông tơ rủ.
Truyện Trường Môn thuở nọ,
Dịp may e chừng đã lỡ.
Mày ngài thêm vướng nợ.
Ngàn vàng mua lấy phú Tương Như,
Tình cảnh ấy cùng ai bày tỏ ?
Chớ may múa,
Há chẳng thấy,
Phi Yến, Ngọc Hoàn thành đất thó.
Buồn dài rất khổ.
Thôi chớ tựa lan can,
Đoạn trường bấy,
Ác lặn bên cành dương khói phủ.

Trường Can hành kỳ 1 長干行其一

君家在何處?
妾住在橫塘。
停船暫借問,
或恐是同鄉。

Trường Can hành kỳ 1

Quân gia tại hà xứ?
Thiếp trú tại Hoành Đường.
Đình thuyền tạm tá vấn,
Hoặc khủng thị đồng hương.

Dịch nghĩa

Nhà chàng ở chỗ nào?
Nhà thiếp ở Hoành Đường.
Tạm dừng thuyền ướm hỏi,
E rằng là người cùng làng.

Dịch

Nhà chàng ở đâu nhỉ
Nhà em ở Hoành Đường
Dừng thuyền em hỏi thử
E cũng bạn đồng hương

Trường Can hành kỳ 2 長干行其二 

家臨九江水,
來去九江側。
同是長干人,
生小不相識。

Trường Can hành kỳ 2

Gia lâm Cửu Giang thuỷ,
Lai khứ Cửu Giang trắc.
Đồng thị Trường Can nhân,
Sinh tiểu bất tương thức.

Dịch nghĩa

Nhà tôi ở kề bên sông Cửu Giang
Đi lại cũng bên sông Cửu Giang
Cùng là người làng Trường Can
Đi xa làng từ lúc bé nên không quen biết

Dịch

Nhà kề bến Cửu Giang
Cửu Giang qua lại miết
Cùng quê ở Trường Can
Đi lâu nên không biết

Đề đô thành nam trang 題都城南莊

去年今日此門中,
人面桃花相映紅。
人面不知何處去?
桃花依舊笑春風。

Đề đô thành nam trang

Khứ niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu xuân phong.

Dịch nghĩa

Năm trước ngày này ngay cửa này,
Mặt người, hoa đào ánh hồng lẫn nhau.
Mặt người chẳng biết đã đi đâu,
Vẫn hoa đào năm ngoái đang cười giỡn với gió xuân.

Dịch

Cửa đây năm ngoái cũng ngày này,
Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây.
Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá,
Hoa đào còn bỡn gió xuân đây.

Lục nguyệt nhị thập thất nhật Vọng Hồ lâu tuý thư kỳ 1

黑雲翻墨未遮山,
白雨跳珠亂入船。
捲地風來忽吹散,
望湖樓下水如天。

Lục nguyệt nhị thập thất nhật Vọng Hồ lâu tuý thư kỳ 1

Hắc vân phiên mặc vị già sơn,
Bạch vũ khiêu châu loạn nhập thuyền.
Quyển địa phong lai hốt xuy tán,
Vọng Hồ lâu hạ thuỷ như thiên.

Dịch nghĩa

Mây kéo đen như mực chưa che kín núi,
Giọt mưa trong như giọt châu nhẩy lung tung vào thuyền.
Bỗng nổi gió ào ào thổi tan hết,
Mặt nước dưới lầu Vọng Hồ lại phẳng như trời.

Dịch

Mây đen trút mực chưa nhoà núi,
Mưa trắng gieo châu nhảy rộn thuyền.
Trận gió bỗng đâu lôi cuốn sạch,
Dưới lầu bát ngát nước in trời.

Niệm nô kiều – Xích Bích hoài cổ

大江東去,
浪淘盡千古風流人物。
故壘西邊,
人道是三國周郎赤壁。
亂石崩雲,
驚濤拍岸,
捲起千堆雪。
江山如畫,
一時多少豪傑。 
遙想公瑾當年,
小喬初嫁了,
雄姿英發。
羽扇綸巾,
談笑間,
檣櫓灰飛煙滅。
故國神遊,
多情應笑我,
早生華髮。
人間如夢,
一樽還酹江月。

Niệm nô kiều – Xích Bích hoài cổ

Đại giang đông khứ,
Lãng đào tận thiên cổ phong lưu nhân vật.
Cổ luỹ tây biên,
Nhân đạo thị Tam Quốc Chu Du Xích Bích.
Loạn thạch băng vân,
Nộ đào liệt ngạn,
Quyển khởi thiên đồi tuyết.
Giang sơn như hoạ,
Nhất thời đa thiểu hào kiệt.
Dao tưởng Công Cẩn đương niên,
Tiểu Kiều sơ giá liễu,
Hùng tư anh phát.
Vũ phiến luân cân,
Đàm tiếu gian,
Cường lỗ hôi phi yên diệt.
Cố quốc thần du,
Đa tình ưng tiếu ngã,
Tảo sinh hoa phát.
Nhân sinh như mộng,
Nhất tôn hoàn thù giang nguyệt.

Dịch

Sông lớn về đông,
Sóng gạn hết nhân vật phong lưu một thuở.
Nghe nói phía tây luỹ cũ,
Xích Bích xưa lừng lẫy tiếng Chu Du.
Đá cgọc mây mù,
Bờ gầm sóng hãi,
Bọt ngầu lên nghìn đống tuyết to.
Giang sơn như vẽ,
Biết bao hào kiệt thời xưa.
Nhớ lại Công Cẩn bấy giờ,
Sánh Tiểu Kiều duyên mới,
Tư thái anh hùng.
Khăn lụa, quạt lông,
Nói cười khoan khoái,
Diệt quân Tào trong trận hoả công.
Mơ thời Tam Quốc,
Đáng cười ta con người đa cảm,
Tóc vội sương lồng.
Cõi đời như mộng,
Rượu bầu tưới xuống sông trăng.

Thuỷ điệu ca đầu – Trung thu 水調歌頭-中秋

明月幾時有,
把酒問青天。
不知天上宮闕,
今夕是何年。
我欲乘風歸去,
又恐瓊樓玉宇,
高處不勝寒。
起舞弄清影,
何似在人間。
轉朱閣,
低綺戶,
照無眠。
不應有恨,
何事長向別時圓。
人有悲歡離合,
月有陰晴圓缺,
此事古難全。
但願人長久,
千里共嬋娟。

Thuỷ điệu ca đầu – Trung thu

Minh nguyệt kỷ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên.
Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên.
Ngã dục thừa phong quy khứ,
Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thắng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà tự tại nhân gian.
Chuyển chu các,
Đê ỷ hộ,
Chiếu vô miên.
Bất ưng hữu hận,
Hà sự trường hướng biệt thời viên.
Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp,
Nguyệt hữu âm, tình, viên, khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Đãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên.

Dịch nghĩa

Trăng sáng có từ bao giờ,
Cầm chén rượu hỏi trời xanh.
Không biết là cung điện trên trời,
Đêm nay là năm nào?
Ta muốn cưỡi gió đi,
Lại sợ trên lầu quỳnh điện ngọc,
Nơi cao rét không chịu nổi.
Đứng lên múa, bóng trăng theo người,
Gì vui hơn ở dưới cõi đời.
Soi khắp gác tía,
Ta tà xuống cửa che màn gấm,
Soi cả đến người có bầu tâm sự không ngủ.
Trăng giận gì người,
Tại sao cứ tròn trong những giờ ly biệt.
Người có lúc buồn, vui, tan, hợp,
Trăng có đêm tối, sáng, tròn, khuyết,
Việc này xưa nay khó bề trọn vẹn.
Những mong người lâu dài,
Ngàn dặm cùng chung vẻ đẹp của trăng.

Dịch

Trăng có từ bao thuở
Nâng chén hỏi trời cao
Đêm nay nơi thiên cung nguyệt điện
Chẳng biết thuộc năm nào
Ta muốn bay về theo gió
Chỉ sợ lầu quỳnh gác ngọc
Cao thẳm rét nhường bao
Múa nhảy mừng vui bóng nguyệt
Cõi trần thích thú hơn nhiều
Qua gác tía
Dòm cửa gấm
Dọi canh sầu
Chẳng nên oán giận
Cớ sao tròn mãi lúc lìa nhau
Người có vui buồn ta hợp
Trăng có tỏ mờ tròn khuyết
Từ xưa khó trọn đều
Chỉ ước người sống mãi
Dặm nghìn chung bóng yêu kiều.

Xuân tiêu 春宵 • Đêm xuân

春宵一刻值千金,
花有清香月有陰。
歌管樓臺聲細細,
鞦韆院落夜沈沈。

Xuân tiêu

Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim,
Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm.
Ca quản lâu đài thanh tế tế,
Thu thiên viện lạc dạ trầm trầm.

Dịch nghĩa

Đêm xuân, một khắc giá ngàn vàng,
Hoa có hương thơm trong lành, trăng có bóng.
Tiếng hát, tiếng sáo từ các lâu đài nghe dìu dặt,
Bay lên, rơi xuống trong sân giữa đêm khuya thanh vắng.

Dịch

Đêm xuân một khắc đáng nghìn vàng,
Bóng nguyệt êm đềm, hoa thoảng hương.
Trên gác đàn ca nghe văng vẳng,
Xuân đu lặng lẽ suốt canh trường.

Cam Lộ tự 甘露寺

聳翠攢蒼入望多,
溪西月影轉簷斜。
隔林啼鳥尤岑寂,
一徑古松初墜花。

Cam Lộ tự

Tủng thuý toàn thương nhập vọng đa,
Khê tây nhật ảnh chuyển thiềm tà.
Cách lâm đề điểu vưu sầm tịch,
Nhất kính cổ tùng sơ truỵ hoa.

Dịch nghĩa

Mầu thuý vòi vọi, mầu xanh trập trùng tràn ngập trong tầm mắt,
Bóng mặt trời phía Tây dòng suối chênh chếch ngả vào mái hiên.
Chim kêu bên kia rừng càng thêm hiu quạnh,
Một ngõ thông già lác đác rụng hoa.

Dịch

Trập trùng núi biếc non xanh,
Bóng chiều bên suối chênh chênh rọi thềm.
Bên rừng càng quạnh tiếng chim,
Thông già một lối im lìm rụng hoa.

Chúng tôi đã chia sẻ cho bạn những tác phẩm dịch đặc sắc của nhà thơ Nam Trân. Hãy theo dõi và cảm nhận những thi phẩm xuất sắc này của ông nhé! Cảm ơn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Nhà thơ Nam Trân và trọn bộ những bài thơ dịch đặc sắc nhất phần 2