Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 8

Bắc Hành Tạp Lục là một tập thơ thành công của đại thi hào Nguyễn Du. Đây chính là tập thơ mang nhiều tâm huyết được mài dũa tỉ mỉ của ông. Đọc thơ ta nhận thấy những trang thơ với những giọng thơ đầy thấm thía, u buồn. Nhiều thi phẩm của ông vang danh được đưa vào chương trình dạy học gắn bó với nhiều thế hệ bạn trẻ Việt Nam. Nếu bạn tò mò về thi phẩm này thì hãy cùng uct.edu.vn khám phá ngay nhé!

Sở Bá Vương mộ kỳ 1 楚霸王墓其一

拔山扛鼎奈天何,
夙恨悠悠寄淺沙。
霸上已成天子氣,
帳中空聽美人歌。
眼前片石英雄在,
事後群儒口舌多。
欲覓長陵一坏土,
赤眉亂後遍蓬麻。

Sở Bá Vương mộ kỳ 1

Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà,
Túc hận du du ký thiển sa.
Bá Thượng dĩ thành thiên tử khí,
Trướng trung không thính mỹ nhân ca.
Nhãn tiền phiến thạch anh hùng tại,
Sự hậu quần nho khẩu thiệt đa.
Dục mịch Trường Lăng nhất phôi thổ,
Xích my loạn hậu biến bồng ma.

Dịch nghĩa

Có sức dời núi nhấc vạc nhưng làm gì được mệnh trời
Mối hận cũ dằng dặc gửi dưới cát mỏng
Đất Bá Thượng đã hiện ra khí thiên tử
Trong màn luống nghe tiếng hát của người đẹp
Trước mắt, phiến đá còn để dấu anh hùng
Sau việc, đám nhà nho miệng lưỡi lắm điều
Muốn tìm một mảnh đất ở Trường Lăng
Nhưng sau loạn Xích mi, gai góc mọc đầy

Sở Bá Vương mộ kỳ 2 楚霸王墓其二

路旁片石獨崢嶸,
不是烏江是魯城。
及識敗亡非戰罪,
空勞智力與天爭。
古今無那英雄淚,
風雨猶聞叱吒聲。
寂寂二時無埽祭,
春來虞草自叢生。

Sở Bá Vương mộ kỳ 2

Lộ bàng phiến thạch độc tranh vanh,
Bất thị Ô Giang thị Lỗ Thành.
Cập thức bại vong phi chiến tội,
Không lao trí lực dữ thiên tranh.
Cổ kim vô nả anh hùng lệ,
Phong vũ do văn sất trá thanh.
Tịch tịch nhị thì vô tảo tế,
Xuân lai Ngu thảo tự tùng sanh.

Dịch nghĩa

Bên đường tấm đá đứng một mình cao ngất
Không phải ở Ô Giang (nơi Hạng Vũ tự đâm cổ) mà ở thành nước Lỗ (nơi dân chúng trung thành với Hạng Vương tới cùng, đã tống táng Hạng Vương theo nghi lễ)
Mới hay đánh thua không phải vì dùng binh vụng
Đem trí lực đọ với mệnh trời chỉ uổng công
Xưa nay bao anh hùng đã rớt nước mắt
Trong mưa gió còn nghe tiếng thét gào
Vắng lặng hai mùa không người quét dọn cúng tế
Mùa xuân đến, cỏ Ngu mỹ nhân lại mọc rậm rạp xanh tươi

Liễu Hạ Huệ mộ 柳下惠墓 • Mộ Liễu Hạ Huệ

吳店橋通泗水波,
士師名蹟未消磨。
事人直道寧三黜,
作聖全功在一和。
相對尼山長有魯,
可憐盜跖已無家。
碑殘字沒埋荒草,
天古聞風一下車。

Liễu Hạ Huệ mộ

Ngô Điếm kiều thông Tứ thuỷ ba,
Sĩ Sư danh tích vị tiêu ma.
Sự nhân trực đạo ninh tam truất,
Tác thánh toàn công tại nhất hoà.
Tương đối Ni Sơn trường hữu Lỗ,
Khả liên Đạo Chích dĩ vô gia.
Bi tàn tự một mai hoang thảo,
Thiên cổ văn phong nhất há xa.

Dịch nghĩa

Dưới cầu Ngô Điếm sông Tứ chảy
Tiếng tăm của bậc Sĩ sư vẫn chưa mất
Lấy đạo ngay thẳng thờ người, ba lần chịu mất chức
Nên công bậc thánh ở chữ “Hoà”
Đối mặt Ni Sơn, nước Lỗ còn mãi mãi
Thương cho Đạo Chích kẻ không nhà
Bia tàn chữ mất chôn vùi nơi cỏ hoang
Nghìn năm còn nghe tiếng, tôi xuống xe

Từ Châu đạo trung 徐州道中

桑乾南下白雲多,
水遠山長瞥眼過。
萬里利名驅白髮,
一天風雪渡黃河。
每憐故態惟狂在,
欲覓新歡奈老何。
攘盡苦寒三閱月,
嶺頭落得看梅花。

Từ Châu đạo trung

Tang Can nam hạ bạch vân đa,
Thuỷ viễn sơn trường miết nhãn qua.
Vạn lý lợi danh khu bạch phát,
Nhất thiên phong tuyết độ Hoàng Hà.
Mỗi liên cố thái duy cuồng tại,
Dục mịch tân hoan nại lão hà.
Nhương tận khổ hàn tam duyệt nguyệt,
Lĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa.

Dịch nghĩa

Sông Tang Can về nam nhiều mây trắng
Sông xa núi dài, vút mắt nhìn qua
Vì lợi danh mà tóc trắng vẫn còn rong ruổi ngoài vạn dặm
Một trời gió tuyết qua sông Hoàng Hà
Thương thay cho tánh cũ vẫn còn ngông cuồng
Muốn tìm vui mới nhưng già rồi biết làm sao
Cố chịu khổ lạnh suốt ba tháng nữa
Sẽ được ngắm hoa mai trên đỉnh núi

Nhị Sơ cố lý 二疏故里

浮世滔滔死殉名,
回頭誰肯念吾生。
官從一致身能保,
事隔千年石未傾。
春社空留親故會,
薄田無復子孫耕。
可憐垂老蕭賢傅,
徒得人間歎不平。

Nhị Sơ cố lý

Phù thế thao thao tử tuẫn danh,
Hồi đầu thuỳ khẳng niệm ngô sinh.
Quan tòng nhất trí thân năng bảo,
Sự cách thiên niên thạch vị khuynh.
Xuân xã không lưu thân cố hội,
Bạc điền vô phục tử tôn canh.
Khả liên thuỳ lão Tiêu Hiền Phó,
Đồ đắc nhân gian thán bất bình.

Dịch nghĩa

Cuộc đời trôi nổi, bao người chết vì danh
Mấy ai chịu quay đầu suy ngẫm đời mình
Đồng lòng từ quan, giữ lấy được thân
Việc cách đây nghìn năm mà bia đá chưa đổ
Ngày hội xuân còn không người cũ họp mặt
Ruộng (vua cho) coi thường không để con cháu cày cấy
Đáng thương Tiêu Hiền Phó (làm quan) đến già (bị hạ ngục phải tự tử)
Để được người đời than cho nỗi bất bình

Quản Trọng Tam Quy đài 管仲三歸臺

舊臺湮沒草離離,
曾以桓公霸一時。
郡縣城中空九合,
莓苔石上記三歸。
在朝巧與君心合,
沒世終憐相業卑。
喜值聖朝公覆燾,
往來臺下雜華夷。

Quản Trọng Tam Quy đài

Cựu đài nhân một thảo li li,
Tằng dĩ Hoàn Công bá nhất thì.
Quận huyện thành trung không cửu hợp,
Môi đài thạch thượng kí Tam Quy.
Tại Triều xảo dữ quân tâm hợp,
Một thế chung liên tướng nghiệp ti.
Hỉ trị thánh triêu công phúc đảo,
Vãng lai đài hạ tạp Hoa, Di.

Dịch nghĩa

Đài cũ chìm lấp, cỏ mọc tua tủa
Từng giúp Tề Hoàn Công nên nghiệp bá một thời
Trong thành đã chín lần hợp các quận huyện
Trên đá rêu phủ còn ghi chữ “Tam Quy”
Ở triều đình khéo hợp lòng vua
Rốt cuộc chết, bị chê là tể tướng công nghiệp nhỏ mọn
Mừng gặp thánh triều che chở khắp
Dưới đài qua lại lẫn lộn người Hoa, người Di

Kê Khang cầm đài 嵇康琴臺

琴臺古跡記嵇康,
人死琴亡臺亦荒。
文武七絃終寂寂,
東西兩晉亦茫茫。
至今不朽惟童性,
此後何人到醉鄉。
嘆息廣陵絃絕後,
琵琶新譜半胡姜。

Kê Khang cầm đài

Cầm đài cổ tích ký Kê Khang,
Nhân tử cầm vong đài diệc hoang.
Văn vũ thất huyền chung tịch tịch,
Đông tây lưỡng Tấn diệc mang mang.
Chí kim bất hủ duy đồng tính,
Thử hậu hà nhân đáo tuý hương.
Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu,
Tỳ bà tân phổ bán Hồ Khương.

Dịch nghĩa

Sách xưa ghi “Cầm đài” là của Kê Khang
Người chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang
Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt
Hai nước Đông Tấn, Tây Tấn cũng mất tăm
Đến nay cái bất hủ ở ông còn lại là tính trẻ con
Sau đó ai là người đến với làng say?
Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
Bài nhạc mới đàn tì bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương.

Từ Châu đê thượng vọng 徐州堤上望

一河南北古爭衡,
河上徐州舊有名。
戲馬舊臺秋草遍,
斷蛇大澤暮雲平。
一城人物窩中蟻,
四路舟車水上萍。
悵望紅塵渺無際,
不知日日此中行。

Từ Châu đê thượng vọng

Nhất hà nam bắc cổ tranh hành,
Hà thượng Từ Châu cựu hữu danh.
Hí mã cựu đài thu thảo biến,
Đoạn xà đại trạch mộ vân bình.
Nhất thành nhân vật oa trung nghĩ,
Tứ lộ chu xa thuỷ thượng bình.
Trướng vọng hồng trần diểu vô tế,
Bất tri nhật nhật thử trung hành.

Dịch nghĩa

Một sông chia nam bắc, xưa tranh giành
Phía trên sông là đất Từ Châu nổi tiếng thời trước
Đài đua ngựa cũ, cỏ thu mọc tràn
Đầm lớn “chém rắn” ngập mây chiều
Người vật trong thành như kiến trong tổ
Thuyền xe bốn ngả như bèo nổi trên nước
Buồn trông bụi hồng bay mù không bờ bến
Không biết rằng ngày ngày đi lại trong đó

An Huy đạo trung 安徽道中

啼鴉啞啞亂凌晨,
徐北徐南曉色分。
一帶雪田青者麥,
四山松樹白為雲。
悠悠鄉國八千里,
碌碌功名一片塵。
共指梅花報消息,
春何曾到異鄉人。

An Huy đạo trung

Đề nha á á loạn lăng thần,
Từ bắc Từ nam hiểu sắc phân.
Nhất đới tuyết điền thanh giả mạch,
Tứ sơn tùng thụ bạch vi vân.
Du du hương quốc bát thiên lý,
Lục lục công danh nhất phiến trần.
Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức,
Xuân hà tằng đáo dị hương nhân.

Dịch nghĩa

Tiếng quạ kêu quác quác làm xáo trộn buổi hừng đông,
Ánh sáng ban mai phân biệt hai vùng nam bắc Từ Châu,
Một dải ruộng tuyết phủ, xanh là lúa mạch,
Bốn phía núi tùng đầy, trắng là mây,
Quê hương mờ mịt, cách xa tám nghìn dặm
Lặn lội theo đuổi công danh, thân một áng bụi đời,
Cùng trỏ hoa mai báo tin tức,
Nhưng xuân có đến bao giờ với kẻ tha hương.

Á Phụ mộ 亞父墓

眼看霸上五雲浮,
汲汲方圖一擊謀。
但得此心無負楚,
不知天命已歸劉。
伯圖泯滅千年後,
古墓荒涼三尺秋。
多少一心忠所事,
每為天下笑其愚。

Á Phụ mộ

Nhãn khan Bá Thượng ngũ vân phù,
Cấp cấp phương đồ nhất kích mưu.
Đãn đắc thử tâm vô phụ Sở,
Bất tri thiên mệnh dĩ quy Lưu.
Bá đồ mẫn diệt thiên niên hậu,
Cổ mộ hoang lương tam xích thu.
Đa thiểu nhất tâm trung sở sự,
Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ ngu.

Dịch nghĩa

Mắt đã trông thấy mây năm sắc nổi trên đất Bá Thượng
Mà còn nhất định gấp rút lo mưu chước đánh kẻ thù
Lòng này chỉ mong khỏi phụ nước Sở
Chẳng cần biết mệnh trời đã về họ Lưu
Sau nghìn năm nghiệp bá đã tan tành
Ngôi mộ cổ ba thước lạnh lẽo trong khí thu hoang lạnh
Bao kẻ một lòng trung với người mình phụng sự
Thường làm cho thiên hạ cười rằng ngu

Bắc Hành Tạp Lục là một trong những tập thơ thành công vang dội nhất của nhà thơ Nguyễn Du. Tập thơ chính là những suy nghĩ của ông về chuyến đi xứ sang Trung Quốc của mình. Mời các bạn đón xem phần 9 cùng những thi phẩm còn lại của chúng tôi nhé! Thân Ái!

Xem Thêm: Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 7