Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 9

Bắc Hành Tạp Lục là những cảm xúc của Nguyễn Du trong quá trình đi xứ Trung Quốc. Ông là một thi sĩ đầy tài năng cùng những giá trị sâu sắc ghi dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả. Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Với ngòi bút hiện thực, nhà thơ đã tái hiện lại cuộc sống bi thương trong xã hội phong kiến cả ở nước ta lẫn ở Trung Hoa thuở ấy. Cùng nhau cảm nhận những tuyệt phẩm còn lại của ông trong tập thơ này nhé!

Chu Lang mộ 周郎墓

燒盡曹家百萬兵,
丈夫差得慰平生。
同年交誼聯孫策,
一世知音得孔明。
瓦礫吳宮荒帝業,
荊蓁古墓上雄名。
二喬香骨藏何所,
眼見銅臺半已傾。

Chu Lang mộ

Thiêu tận Tào gia bách vạn binh,
Trượng phu sai đắc uý bình sinh.
Đồng niên giao nghị liên Tôn Sách,
Nhất thế tri âm đắc Khổng Minh.
Ngoã lịch Ngô cung hoang đế nghiệp,
Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh.
Nhị Kiều hương cốt tàng hà sở,
Nhãn kiến Đồng đài bán dĩ khuynh.

Dịch nghĩa

Đốt sạch trăm vạn quân họ Tào
Trượng phu cũng đủ thoả chí bình sinh
Đồng niên anh em bạn rể cùng Tôn Sách
Một đời tri âm có được Khổng Minh
Cung Ngô thành ngói gạch vụn, nghiệp đế tan hoang
Ngôi mộ cổ gai góc mọc đầy, nức tiếng anh hùng
Hương cốt hai Kiều vùi lấp nơi đâu
Mắt thấy đài Đồng Tước một nửa đã nghiêng đổ

Tổ Sơn đạo trung 祖山道中

楓樹林中葉亂飛,
驚沙作雨上征衣。
蕭蕭枯草路一線,
寂寂斜陽山四圍。
去日兩河曾習戰,
紆途千里正思歸。
皤皤白髮紅塵路,
日暮登高悲莫悲。

Tổ Sơn đạo trung

Phong thụ lâm trung diệp loạn phi,
Kinh sa tác vũ thướng chinh y.
Tiêu tiêu khô thảo lộ nhất tuyến,
Tịch tịch tà dương sơn tứ vi.
Khứ nhật Lưỡng Hà tằng tập chiến,
Hu đồ thiên lí chính tư quy.
Bà bà bạch phát hồng trần lộ,
Nhật mộ đăng cao bi mạc bi.

Dịch nghĩa

Trong rừng phong lá bay loạn
Cát tung lên như mưa trên áo người đi
Suốt dặm đường, chỉ là cỏ khô xơ xác
Chiều hôm quạnh quẽ, núi vây bốn bề
Hôm trước, Lưỡng Hà chiến tranh liên miên
Đường đi vòng dài nghìn dặm, làm nhớ quê
Tóc bạc phơ trên đường bụi đỏ
Trời tối lên cao, không gì buồn thế

Quảng Tế ký thắng 廣濟記勝

江南湖北地相鄰,
日日繁華不記春。
玉笛樓頭天上曲,
垂楊門外畫中人。
漆盆浴店傾肥皁,
玉手胡姬膾細鱗。
欲典鷫鷞謀一醉,
奈何頭已白如銀。

Quảng Tế ký thắng

Giang Nam, Hồ Bắc địa tương lân,
Nhật nhật phồn hoa bất ký xuân.
Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc,
Thuỳ dương môn ngoại hoạ trung nhân.
Tất bồn dục điếm khuynh phi tạo,
Ngọc thủ Hồ cơ khoái tế lân.
Dục điển túc sương mưu nhất tuý,
Nại hà đầu dĩ bạch như ngân.

Đồ trung ngẫu hứng 途中偶興

山下喬松松下墳,
纍纍都是古時人。
自由自在不知死,
花落花開無限春。
伏臘子孫空酹酒,
世間富貴等浮雲。
百年到底皆如是,
回首芒芒一片塵。

Đồ trung ngẫu hứng

Sơn hạ kiều tùng, tùng hạ phần,
Luy luy đô thị cổ thời nhân.
Tự do tự tại bất tri tử,
Hoa lạc hoa khai vô hạn xuân.
Phục lạp tử tôn không loại tửu,
Thế gian phú quí đẳng phù vân.
Bách niên đáo để giai như thị,
Hồi thủ mang mang nhất phiến trần.

Dịch nghĩa

Dưới chân núi là thông cao, dưới tàn thông là mồ mả
Ngổn ngang gò đống, đều là người xưa cả
Tự do tự tại không biết là đã chết
Hoa rụng hoa nở, mùa xuân vô hạn
Đến tiết phục lạp, con cháu uổng công tưới rượu xuống đất
Giàu sang trên đời như mây nổi
Trăm năm rốt cuộc đều như thế
Quay đầu nhìn chỉ thấy một áng bụi mịt mùng

Hoàng Châu trúc lâu 黃州竹樓

合圍巨竹遍郊衢,
曾有前人建此樓。
舊址何時成白地,
遺文從古記黃州。
後人徒有千年感,
當日曾無隔歲謀。
惟有長江巧收拾,
一成一毀盡東流。

Hoàng Châu trúc lâu

Hợp vi cự trúc biến giao cù,
Tằng hữu tiền nhân kiến thử lâu.
Cựu chỉ hà thì thành bạch địa,
Di văn tòng cổ ký Hoàng Châu.
Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm,
Đương nhật tằng vô cách tuế mưu.
Duy hữu Trường giang xảo thu thập,
Nhất thành nhất huý tẫn đông lưu.

Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ 榮棨期拾穗處

三樂人皆有,
如何子獨知。
生貧猶不恤,
老死復何悲。
曠野東山下,
行歌拾穗時。
賢名留此地,
天古起人思。

Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ

Tam lạc nhân giai hữu,
Như hà tử độc tri.
Sinh bần do bất tuất,
Lão tử phục hà bi.
Khoáng dã Đông Sơn hạ,
Hành ca thập tuệ thì.
Hiền danh lưu thử địa,
Thiên cổ khởi nhân tư.

Dịch nghĩa

Ba niềm vui của ông, mọi người đều có
Sao chỉ mình ông biết?
Sống nghèo còn chẳng đoái nghĩ
Già chết lại buồn chi?
Cánh đồng bát ngát bên núi Đông Sơn
Vừa ca vừa mót lúa
Tiếng người hiền lưu lại đất này
Xưa nay người ta nhớ

Mạnh Tử từ cổ liễu 孟子祠古柳

吾聞天池之濆有龍夭矯,
今之畫圖無略肖。
風雨一夜飛下來,
化為亞聖官門柳。
此柳渾全百十圍,
養成大物非一時。
雨露天意獨滋潤,
鬼神暗中相扶持。
枝柯落落老益壯,
歲月悠悠深不知。
左蟠右轉當大道,
過客不敢攀其枝。
蔥蔥鬱鬱抱元氣,
天下斯文其在斯。
鄉人支以二石柱,
石柱既深根愈固。
不同凡卉小春秋,
半畝風煙自今古。
灝然之氣非尋常,
大樹應與天齊壽。

Mạnh Tử từ cổ liễu

Ngô văn thiên trì chi phần hữu long yêu kiểu,
Kim chi hoạ đồ vô lược tiếu.
Phong vũ nhất dạ phi há lai,
Hoá vi á thánh cung môn liễu.
Thử liễu hồn toàn bách thập vi,
Dưỡng thành đại vật phi nhất thì.
Vũ lộ thiên ý độc tư nhuận,
Quỷ thần ám trung tương phù trì.
Chi kha lạc lạc lão ích tráng,
Tuế nguyệt du du thâm bất tri.
Tả bàn hữu chuyển đương đại đạo,
Quá khách bất cảm phan kỳ chi.
Thông thông uất uất bão nguyên khí,
Thiên hạ tư văn kỳ tại ti (tư).
Hương nhân chi dĩ nhị thạch trụ,
Thạch trụ ký thâm căn dũ cố.
Bất đồng phàm huỷ tiểu xuân thu,
Bán mẫu phong yên tự kim cổ.
Hạo nhiên chi khí phi tầm thường,
Đại tài ưng dữ thiên tề thọ.

Từ Châu dạ 徐州夜 

行路避干戈,
嚴寒渡夜河。
月來南國大,
山入北徐多。
城外列兵甲,
城中聞絃歌。
枯楊三百樹,
樹樹有啼鴉。

Từ Châu dạ

Hành lộ tị can qua,
Nghiêm hàn độ dạ hà.
Nguyệt lai nam quốc đại,
Sơn nhập bắc Từ đa.
Thành ngoại liệt binh giáp,
Thành trung văn huyền ca.
Khô dương tam bách thụ,
Thụ thụ hữu đề nha.

Dịch nghĩa

Đi đường phải tránh vùng giặc giã
Giữa đêm đông giá lạnh, qua sông
Phía nước Nam, trăng lớn
Bắc Từ Châu, núi nhiều
Ngoài thành đầy binh giáp
Trong thành nghe đàn ca
Ba trăm cây dương khô héo
Trên các cây, tiếng quạ kêu

Tiềm Sơn đạo trung 潛山道中

夙有愛山癖,
別後思何如。
來到潛山路,
宛如鴻嶺居。
雲霞猿嘯外,
松柏鶴巢餘。
定有山中客,
平生不識余。

Tiềm Sơn đạo trung

Túc hữu ái sơn tích,
Biệt hậu tư hà như.
Lai đáo Tiềm Sơn lộ,
Uyển như Hồng Lĩnh cư.
Vân hà viên khiếu ngoại,
Tùng bách hạc sào dư.
Định hữu sơn trung khách,
Bình sinh bất thức dư.

Dịch nghĩa

Ta vốn có tính yêu núi
Xa rồi nhớ bao nhiêu
Nay trên đường đi Tiềm Sơn
Tưởng như ở trong dãy Hồng Lĩnh
Mây ráng bên ngoài nơi vượn hú
Cây tùng cây bách có thừa chỗ cho hạc làm tổ
Hẳn có người trong núi
Suốt đời không quen biết ta

Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích 桃花潭李青蓮舊跡 

桃花潭水千尺清,
潭上松柏冬猶青。
道是唐朝李供奉,
縱飲此潭因得名。
十年酒肆人間世,
天子呼來猶爛醉。
自言臣是酒中仙,
薄視榮名同敝履。
千年勝跡以人傳,
不在悠悠一潭水。
潭水至今清且漣,
一魚一鳥皆成仙。
惆悵斯人不復見,
遠來使我心茫然。
世路塵埃信溷濁,
不如終日痛飲全吾天。

Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích

Đào Hoa đàm thuỷ thiên xích thanh,
Đàm thượng tùng bách đông do thanh.
Đạo thị Đường triều Lý cung phụng,
Túng ẩm thử đàm nhân đắc danh.
Thập niên tửu tứ nhân gian thế,
Thiên tử hô lai do lạn tuý.
Tự ngôn thần thị tửu trung tiên,
Bạc thị vinh danh đồng tệ lý.
Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền,
Bất tại du du nhất đàm thuỷ.
Đàm thuỷ chí kim thanh thả liên,
Nhất ngư nhất điểu giai thành tiên.
Trù trướng tư nhân bất phục kiến,
Viễn lai sử ngã tâm mang nhiên.
Thế lộ trân ai tín hỗn trọc,
Bất như chung nhật thống ẩm toàn ngô thiên.

Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 1 桃花驛道中其一

潛山入百里,
西接楚山雲。
古石瘦如鬼,
新松長比人。
萬畦宜菽麥,
十日隔風塵。
白連河北山,
山中如不聞。

Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 1

Tiềm Sơn bát bách lý,
Tây tiếp Sở sơn vân.
Cổ thạch sấu như quỷ,
Tân tùng trường tỷ nhân
Vạn huề nghi thục mạch,
Thập nhật cách phong trần.
Bạch Liên Hà Bắc sơn,
Sơn trung như bất văn.

Dịch nghĩa

Trạm Đào Hoa cách Tiềm Sơn tám trăm dặm,
Phía tây tiếp liền mây núi Sở.
Đá cổ gầy như quỷ,
Thông non cao bằng người.
Vạn khoảng ruộng, dâu lúa đều tốt,
Đã mười ngày xa gió bụi.
Qua dãy Bạch Liên ở Hà Bắc,
Trong núi vắng lặng như không nghe thấy gì.

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài

梁朝昭明太子分經處,
石臺猶記分經字。
臺基蕪沒雨花中,
百草驚寒盡枯死。
不見遺經在何所,
往事空傳梁太子。
太子年少溺菸文,
強作解事徒紛紛。
佛本是空不著物,
何有乎經安用分。
靈文不在言語科,
孰為金剛為法華。
色空境界茫不悟,
癡心歸佛佛生魔。
一門父子多膠蔽,
一念之中魔自至。
山陵不涌蓮花臺,
白馬朝渡長江水。
楚林禍木池殃魚,
經卷燒灰臺亦圯。
空留無益萬千言,
後世愚僧徒聒耳。
吾聞世尊在靈山,
說法渡人如恆河沙數。
人了此心人自渡,
靈山只在汝心頭。
明鏡亦臺,
菩提本無樹。
我讀金剛千遍零,
其中奧旨多不明。
及到分經石臺下,
終知無字是眞經。

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ
Thạch đài do ký “Phân kinh” tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Vãng sự không truyền Lương thái tử
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mã triêu độ Trường Giang thuỷ
Sở lâm hoạ mộc trì ương ngư
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ Đề bản vô thụ
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh

Dịch nghĩa

Nơi Chiêu Minh thái tử triều Lương chia kinh
Đài đá còn ghi chữ “Chia kinh”
Nền đài gai góc lấp trong mưa bụi
Trăm loài cỏ sợ lạnh đều chết khô hết
Không thấy kinh còn lại nơi đâu
Chỉ nghe kể chuyện thời xưa
Lương thái tử thời niên thiếu say mê văn chương
Gượng bày đặt phân tách chi ly rắc rối
Phật vốn là không, chẳng vướng vào vật
Có gì tuỳ thuộc vào kinh mà chia với phân?
Văn thiêng không phải nhờ khoa ngôn ngữ
Cái gì là kinh Kim Cương, cái chi là kinh Pháp Hoa?
Cảnh giới Sắc Không mờ mịt không hiểu
U mê mà theo Phật thì Phật sinh ra ma
Cha con một nhà cùng mù quáng hết
Chỉ trong một niệm, ma tự đến
Ở nơi lăng núi không có đài sen nổi lên
Một sớm ngựa trắng vượt sông Trường Giang
Rừng nước Sở cháy, cây gặp tai hoạ, cá trong ao bị vạ
Kinh cháy ra tro, đài cũng đổ
Muôn nghìn lời để lại đều vô ích
Chỉ để cho đám sư ngu dốt đời sau tụng đọc điếc tai
Ta nghe nói đức Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết Pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở tại lòng ta
Gương sáng không có đài
Bồ đề vốn không cây
Ta đọc Kinh Kim cương hơn nghìn lần
Nhiều yếu chỉ sâu sắc trong đó ta không rõ
Đến nay, dưới đài đá “Chia kinh”
Mới hiểu kinh “không chữ” mới thật là chân kinh

Tây Hà dịch 西河驛

青石橋西岸,
依然小里閭。
道傍人語雜,
屋後竹陰疏。
禾本供晨燒,
春聯待歲除。
相逢無別話,
一笑意何如。

Tây Hà dịch

Thanh thạch kiều tây ngạn,
Y nhiên tiểu lý lư.
Đạo bàng nhân ngữ tạp,
Ốc hậu trúc âm sơ.
Hoà bản cung thần thiếu,
Xuân liên đãi tuế trừ.
Tương phùng vô biệt thoại,
Nhất tiếu ý hà như.

Dịch nghĩa

Bên bờ phía tây cầu đá xanh
Xóm nhỏ vẫn như cũ
Bên đường tiếng người tạp nhạp
Sau nhà bóng trúc thưa
Gốc rạ dành để đốt lửa sớm
Câu đối xuân chờ hết năm cũ
Gặp nhau không nói năng gì
Chỉ cười, ý ra sao

Sở kiến hành 所見行

有婦攜三兒,
相將坐道旁。
小者在懷中,
大者持竹筐。
筐中何所盛,
藜藿雜枇糠。
日晏不得食,
衣裙何框禳。
見人不仰視,
淚流襟浪浪。
群兒且喜笑,
不知母心傷。
母心傷如何,
歲饑流異鄉。
異鄉稍豐熟,
米價不甚昂。
不惜棄鄉土,
苟圖救生方。
一人竭傭力,
不充四口糧。
沿街日乞食,
此計安可長。
眼下委溝壑,
血肉飼豺狼。
母死不足恤,
撫兒增斷腸。
奇痛在心頭,
天日皆為黃。
陰風飄然至,
行人亦悽惶。
昨宵西河驛,
供具何張黃。
鹿筋雜魚翅,
滿棹陳豬羊。
長官不下箸,
小們只略嘗。
撥棄無顧惜,
鄰狗厭膏粱。
不知官道上,
有此窮兒娘。
誰人寫此圖,
持以奉君王。

Sở kiến hành

Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương toạ đạo bàng
Tiểu giả tại hoài trung
Ðại giả trì trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh
Lê hoắc tạp tì khang
Nhật án bất đắc thực
Y quần hà khuông nhương
Kiến nhân bất ngưỡng thị
Lệ lưu khâm lang lang
Quần nhi thả hỉ tiếu
Bất tri mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thục
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
Nhất nhân kiệt dung lực
Bất sung tứ khẩu lương
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế an khả trường
Nhãn hạ uỷ câu hác
Huyết nhục tự sài lang
Mẫu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây Hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thuỳ nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương

Dịch nghĩa

Có người đàn bà dắt ba đứa con
Cùng nhau ngồi bên đường
Ðứa nhỏ trong bụng mẹ
Ðứa lớn cầm giỏ tre
Trong giỏ đựng gì lắm thế?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Qua trưa rồi chưa được ăn
Áo quần sao mà rách rưới quá
Thấy người không ngẩng nhìn
Nước mắt chảy ròng ròng trên áo
Lũ con vẫn vui cười
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói lưu lạc đến làng khác
Làng khác mùa màng tốt hơn
Giá gạo không cao quá
Không hối tiếc đã bỏ làng đi
Miễn sao tìm được phương tiện sống
Một người làm hết sức
Không đủ nuôi bốn miệng ăn
Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày
Cách ấy làm sao kéo dài mãi được
Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh
Máu thịt nuôi lang sói
Mẹ chết không thương tiếc
Vỗ về con càng thêm đứt ruột
Trong lòng đau xót lạ thường
Mặt trời vì thế phải vàng uá
Gió lạnh bỗng ào tới
Người đi đường cũng đau đớn làm sao
Ðêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức
Gân hươu cùng vây cá
Ðầy bàn thịt heo, thịt dê
Quan lớn không thèm đụng đũa
Ðám theo hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon
Không biết trên đường cái
Có mẹ con đói khổ nhà này
Ai người vẽ bức tranh đó
Ðem dâng lên nhà vua

Hoàng Mai đạo trung 黃梅道中 

吳山行已遍,
楚山來更多。
到得青山盡,
其如白髮何。
衡岳雪初霽,
洞庭春水波。
計程在三月,
猶及薔薇花。

Hoàng Mai đạo trung

Ngô sơn hành dĩ biến,
Sở sơn lai cánh đa.
Đáo đắc thanh sơn tận,
Kì như bạch phát hà.
Hành Nhạc tuyết sơ tễ,
Động đình xuân thuỷ ba.
Kế trình tại tam nguyệt,
Do cập tường vi hoa.

Dịch nghĩa

Núi nước Ngô đã đi khắp
Đến nước Sở, núi càng nhiều
Đến được chỗ tận cùng núi xanh
Đầu bạc biết sao bây giờ
Đến Hành Dương, Nhạc Dương, tuyết vừa tạnh
Hồ Động Đình, nước xuân sóng sánh
Tính đường đi, tháng ba về tới
Còn kịp thấy hoa tường vi

Chu phát 舟發

去遍東南路,
匆匆歲欲週。
使從江漢口,
來泛洞庭舟。
人比來時瘦,
江同去日秋。
鶴樓成詠處,
白雲空悠悠。

Chu phát

Khứ biến đông nam lộ,
Thông thông tuế dục chu.
Sử tòng Giang Hán khẩu,
Lai phiếm Động Đình chu.
Nhân bỉ lai thì sấu,
Giang đồng khứ nhật thu.
Hạc lâu thành vịnh xứ,
Bạch vân không du du.

Dịch nghĩa

Đi khắp đường đông nam
Thấm thoát năm gần hết
Thuận theo cửa sông Giang Hán
Dong thuyền qua hồ Động Đình
Người gầy hơn so với lần đến
Sông vẫn là thu ngày trước
Ở chỗ vịnh thơ lầu thơ hạc cũ
Mây trắng cứ lững lờ trôi

Bắc Hành Tạp Lục là một tập thơ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Du. Với ngòi bút tinh tế và tài hoa, nhà thơ đã khắc học những cảnh mà ông chứng kiến với những hiện thực sinh động bày tỏ những suy ngẫm của ông. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 8